Nhìn từ diễn biến GDP
![]() | |
Ông Nguyễn Bích Lâm |
1. Dịch vụ “đuối sức”
Có thể nói, sản xuất kinh doanh năm 2014 đã vượt qua khó khăn và trên đường lấy lại đà tăng trưởng cao. GDP tăng 5,98% so cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và 5,42% của năm 2013. Nhưng đáng chú ý là khu vực dịch vụ tăng thấp hơn năm 2013. Cụ thể, mức tăng trưởng GDP của khu vực dịch vụ năm 2014 chỉ đạt 5,96%, trong khi năm 2013 là 6,57%.
Lý do là các hoạt động từ nguồn ngân sách Nhà nước như quản lý Nhà nước, giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ... không còn các yếu tố tăng (như tăng lương và điều chỉnh giá dịch vụ y tế, học phí như năm 2013). Các hoạt động dịch vụ thị trường cũng có xu hướng giảm như: Hoạt động dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức giảm mạnh, năm 2014 chỉ tăng 4,68% thấp hơn 5,23% so với mức tăng 9,91% của năm 2013; Hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán vẫn còn khó khăn, năm 2014 tăng 5,88%, thấp hơn mức tăng 6,89% của năm 2013...
2. Sàng lọc DN rất lớn
Bất chấp tăng trưởng GDP cải thiện, số liệu về tình hình đăng ký DN cả năm 2014 cho thấy, mức độ sàng lọc DN là rất lớn nhưng cũng là bối cảnh để tạo nên những DN có chất lượng, để khu vực DN có thể đương đầu với cạnh tranh trên thị trường.
Theo số liệu từ Cục Đăng ký quản lý kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong năm 2014 cả nước có 9.501 DN giải thể; 58.322 DN khó khăn phải ngừng hoạt động, trong đó có 11.723 DN đăng ký ngừng hoạt động có thời hạn, 46.599 DN ngừng hoạt động chờ đóng mã số hoặc không đăng ký.
Điều đáng nói là trong số 9.501 DN giải thể có đến 93,7% DN có số vốn dưới 10 tỷ đồng và 70% số DN giải thể thuộc lĩnh vực dịch vụ có hàm lượng công nghệ thấp như: DN thuộc lĩnh vực bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô xe máy chiếm 38,24%; dịch vụ lưu trú ăn uống chiếm 4,8%, dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ chiếm 5,2%. Bên cạnh đó, trong năm có 15.419 DN ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động.
3. Tiêu dùng dân cư tăng cao
Xét về góc độ sử dụng, GDP bao gồm các yếu tố tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ, tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư, tích lũy tài sản và xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong năm 2014, tất cả các yếu tố nêu trên đều có mức tăng tương đối cao, song chỉ có tích lũy tài sản và tiêu dùng của hộ dân cư có mức tăng cao hơn năm 2013 (tích lũy là 8,9% so với 5,45%; tiêu dùng dân cư là 6,1% so với 5,18%). Xét về mức đóng góp vào tăng trưởng GDP 5,98% thì tiêu dùng cuối cùng là 4,3 điểm phần trăm, tích lũy tài sản là 2,65 điểm phần trăm và chênh lệch xuất nhập khẩu là -0,96%.
Một vấn đề được quan tâm là giá dầu mỏ giảm tác động thế nào đến tăng trưởng. Thực tế, tăng trưởng GDP được tính theo giá so sánh, đã loại trừ yếu tố thay đổi về giá. Như vậy, dầu mỏ hay các sản phẩm khác đều sử dụng giá năm gốc 2010 làm giá so sánh. Giá dầu thô năm 2014 giảm và dự báo tiếp tục ở mức thấp trong năm 2015, song không ảnh hưởng đến xuất khẩu cũng như giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp khai thác theo giá so sánh. Việc giá dầu thô thay đổi chỉ ảnh hưởng đến quy mô xuất khẩu, GDP theo giá hiện hành...
4. Tín hiệu tốt từ tỷ trọng đầu tư
Tăng trưởng của Việt Nam những năm vừa qua chủ yếu dựa trên 2 yếu tố là vốn đầu tư và lao động. Vấn đề đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, trong thời gian trước năm 2011, do việc phân cấp lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực của Nhà nước.
Từ năm 2010 trở về trước, vốn đầu tư toàn xã hội trong GDP tính theo giá hiện hành luôn chiếm từ 38% trở lên. Giai đoạn 2011 đến nay, đầu tư toàn xã hội đã bắt đầu đi vào chiều sâu, tránh lãng phí, dàn trải, đạt được những hiệu quả nhất định, tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP giảm mạnh.
Tình hình vốn đầu tư trong 4 năm trở lại đây (từ 2011 - 2014) vẫn tăng trưởng qua các năm, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP đã giảm mạnh (dưới 33,5%), Đây là tín hiệu tốt cho nền kinh tế, có thể kiểm soát được theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, chạy theo số lượng, tránh tăng trưởng nóng nhưng không hiệu quả, đảm bảo duy trì sản xuất kinh doanh ổn định, bền vững. Tỷ lệ đầu tư đang có xu hướng giảm và tiệm cận với tỷ lệ để dành của nền kinh tế trong những năm gần đây: Tỷ lệ đầu tư/GDP năm 2010 là 38,8% thì năm 2014 chỉ còn 31%, trong khi tỷ lệ để dành khoảng 29 - 30%.
5. Cần huy động nguồn lực tư nhân
Con số nợ Chính phủ được công bố tăng 70% trong giai đoạn 2010 - 2013. Do đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế thấp, thu ngân sách đạt thấp, trong khi chi thường xuyên liên tục tăng; để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô Chính phủ cũng đã tăng chi đầu tư. Đứng trên góc độ kinh tế vĩ mô, để dành của Việt Nam những gần đây đạt khoảng 29 - 30% GDP, trong khi tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam có xu hướng giảm song vẫn đạt mức 30 - 31% GDP. Tuy nhiên, cũng không phải toàn bộ phần để dành của nền kinh tế được mang ra đầu tư, người dân vẫn để dành thông qua mua kim loại quý, đá quý để tích trữ. Do vậy, phần đi vay bên ngoài để đầu tư của nước ta ngày càng lớn.
Đầu tư của khu vực Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ cao, năm 2013, đầu tư của khu vực này chiếm 40,4% tổng đầu tư của toàn xã hội, khu vực FDI chiếm 22% và khu vực ngoài Nhà nước chiếm 37,6%. Do vậy, cần có chính sách giảm đầu tư của khu vực Nhà nước và tăng đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước. Điều quan trọng là Chính phủ cần có chính sách phù hợp để huy động được nhiều hơn tiền để dành đưa vào đầu tư.
6. Năng suất tăng nhanh nhưng vẫn thấp
Cùng với sự phát triển kinh tế, năng suất lao động xã hội của nước ta ngày cũng được nâng lên nhưng vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Nếu tại thời điểm năm 1989, năng suất lao động xã hội của Việt Nam chỉ đạt gần 1 triệu đồng/lao động (khoảng 200 USD theo tỷ giá thực tế năm 1989), đến năm 2013 đã đạt mức trên 68 triệu đồng/lao động (khoảng 3.000 USD). Tính bình quân 17 năm trở lại đây, năng suất lao động xã hội của nước ta đạt trên 24 triệu đồng/lao động/năm (tương đương khoảng 1.600 USD/lao động/năm), nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Hàn Quốc...
Xét về tốc độ tăng năng suất lao động xã hội, Việt Nam là nước có tốc độ tăng năng suất lao động cao, bình quân giai đoạn 1995 - 2012 đạt 9,7%, trong khi Indonesia tăng 7%; Philippines tăng 5%; Malaysia tăng 4,4%; Hàn Quốc và Thái Lan tăng trên 3%. Năng suất lao động của Việt Nam tăng ở mức cao qua các năm (riêng năm 2009 năng suất lao động giảm so với năm 2008, nhưng sau đó đã tăng 8% trong năm 2010 và tăng trên 14% trong 2 năm gần đây).
Các nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động của nước ta còn thấp, phải kể đến: Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chưa hợp lý; Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ lạc hậu; Trình độ khoa học công nghệ, tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh còn thấp; Tỷ lệ đầu tư cao song hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp; Tỷ lệ chi phí trung gian cao…
Nguyễn Bích Lâm - Tổng cục trưởng Tổng Cục Thống kê
Tàu to liệu đã đủ?
Vay vốn ADB nâng cao năng lực quản lý đường sắt đô thị Hà Nội
Tin liên quan
Tin khác

Phấn đấu hết tháng 5/2025 không còn hồ sơ hoàn thuế tồn quá hạn

Sẽ có nghị định mới về quản lý ODA, vốn vay ưu đãi

Niềm tin vào đồng USD đang lung lay

Bệ phóng cho tăng trưởng năm 2025

Chuẩn hóa quy định nghề hoạch định tài chính cá nhân theo tiêu chuẩn quốc tế

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Ưu tiên thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ, kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8% trở lên

Đề xuất bãi bỏ một số Thông tư lĩnh vực tài chính doanh nghiệp
Lập Ban chỉ đạo về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng
