Để thúc tăng trưởng, tài khóa phải giữ vai trò chủ đạo
Chính phủ đã khẳng định sẽ kiên trì với mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2023 đạt mức 6,5%. Mục tiêu này được đánh giá là rất thách thức. Theo ông, trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với công tác điều hành để đạt được mục tiêu này là gì?
![]() |
Trước hết chúng ta cần nhìn lại thực trạng của nền kinh tế. Trong các khu vực, trừ nông nghiệp lâu nay vẫn ổn định thì công nghiệp suy giảm vô cùng nghiêm trọng do cầu thế giới giảm; dịch vụ cũng không khởi sắc như chúng ta kỳ vọng vì du lịch chưa có đột phá đáng kể. Có thể thấy, các yếu tố tổng cầu đều yếu, từ tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư tư nhân, xuất khẩu khó khăn do kinh tế thế giới suy giảm tăng trưởng… Bối cảnh này đòi hỏi chính sách tài khoá phải nghịch chu kỳ, trong đó tập trung vào 2 nhóm chính sách. Thứ nhất là miễn, giảm, giãn thuế; và thứ hai là tăng cường chi tiêu công.
Tuy nhiên chúng ta thấy rằng đối với chính sách tài khoá cả giai đoạn dịch bệnh trước đây và hiện nay hầu như chưa thể hiện rõ tính nghịch chu kỳ. Đối với chi tiêu công, trong quý đầu năm giải ngân vốn đầu tư công chỉ đạt 9,69% kế hoạch năm, là mức rất thấp so với yêu cầu. Giải ngân các gói kích thích kinh tế theo Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội cũng đang tắc nghẽn dù đây là năm thứ 2 và cũng là năm cuối thực hiện. Nhiều nhóm chính sách hỗ trợ được thiết kế ra nhưng không đi vào thực tiễn, mà vướng mắc chủ yếu xuất phát từ các vấn đề có tính phi kinh tế, cụ thể là liên quan đến câu chuyện sợ trách nhiệm của các cấp thực thi chính sách.
Chính phủ đã thông qua Nghị định 12/2023/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2023. Đồng thời Chính phủ cũng đã đồng ý với đề xuất của Bộ Tài chính về việc giảm 2% mức thuế suất thuế VAT. Ông đánh giá thế nào về tính hiệu quả của nhóm chính sách này?
Tính đến cuối năm 2022, có gần 1 triệu tỷ đồng của Kho bạc Nhà nước đang gửi tại NHNN và các NHTM. Hãy thử làm phép tính với số tiền kết dư trong kho bạc đó thì mỗi ngày chịu bao nhiêu chi phí cơ hội?! Cả năm 2022 ngân sách nhà nước thặng dư 222.500 tỷ đồng. Điều đó cho thấy nhiều gói hỗ trợ kinh tế bị tắc nghẽn không phải vì ngân sách không có tiền. Lúc này, người quản lý tài chính quốc gia phải có vai trò giống như một CFO (giám đốc tài chính) trong một siêu tập đoàn.
Là người quản lý tài chính, phải cân đối nguồn tiền, phân bổ cho hiệu quả để giảm chi phí cơ hội của nguồn lực. Ví dụ trong ngân sách đang có mấy trăm ngàn tỷ, dự kiến đủ khả năng chi tiêu trong 3-6 tháng tới, thì lúc này có thể tạm dừng hoặc giảm các nguồn thu, thông qua việc tăng cường các chính sách miễn, giảm, hoãn thuế. Như vậy có thể thấy gói chính sách của Nghị định 12 là phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Bởi nợ của các DN trong nền kinh tế là nợ gối đầu, nợ đồng lần, DN này nợ DN kia, DN kia nợ DN nọ, DN nọ nợ DN khác. Có một ma trận chuỗi nợ gối đầu như vậy, chỉ cần giải quyết một mắt xích thì sẽ gỡ được cả chuỗi.
Bên cạnh đó, giảm thuế giá trị gia tăng cũng là chính sách hiệu quả vì đây là loại thuế có độ lan toả rất lớn. Tuy nhiên phải thực hiện đồng loạt, đại trà, sao cho cơ sở thuế đủ rộng mới giảm được các vấn đề méo mó, biến dạng thuế trong các hành vi tuân thủ thuế. Khi chúng ta hoãn, giảm, miễn thuế, có thể cung cấp nguồn lực tài chính tạm thời để DN trả lương cho người lao động, nhà cung cấp, thanh toán các đơn hàng. Khi DN được thanh toán, họ sẽ có nguồn lực trả cho các chủ nợ tiếp theo. Từ đó chính sách này sẽ tạo ra hiệu ứng lan toả. Tóm lại tôi muốn nói phải nuôi dưỡng DN bằng các chính sách hỗ trợ thuế để DN "sống" được, bởi khi họ tồn tại được thì ngân sách quốc gia mới có nguồn thu trong tương lai.
Như vậy để kích thích tăng trưởng hiệu quả thì chính sách tài khoá phải giữ vai trò
chủ đạo?
Nếu mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng thì chính sách tài khoá có vai trò rất quan trọng. Chính sách tài khoá thúc đẩy ngay được vào khu vực nền kinh tế thực. Bởi khi chi tiêu công thì dòng tiền sẽ đi ngay vào nền kinh tế, qua đó kích thích tổng cầu thông qua cơ chế lan tỏa thu nhập. Tương tự, khi giải ngân vốn cho một dự án đầu tư công cũng làm tăng tích luỹ vốn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng cả ngắn hạn và dài hạn. Từ đó đảm bảo sức sống cho DN, duy trì việc làm và thu nhập của nền kinh tế.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng chính sách mở rộng tài khoá sẽ tạo ra áp lực tăng lãi suất do tăng tổng cầu. Song, chúng ta cũng không nên lo ngại điều này vì nó được bù trừ bởi các yếu tố khác đang suy giảm, chẳng hạn như tiêu dùng hộ gia đình và đầu tư của doanh nghiệp. Trong khi đó, trái ngược với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ thì khi mở rộng sẽ giúp làm giảm lãi suất. Đó là lý do vì sao tôi đã nhấn mạnh ngay từ ban đầu rằng để thúc đẩy tăng trưởng, cần phối hợp nhịp nhàng hơn giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ.
Ông có thể phân tích kỹ hơn về yêu cầu đặt ra đối với chính sách tiền tệ để phối hợp nhịp nhàng với tài khoá?
Khi mở rộng tài khoá sẽ làm tăng tổng cầu, từ đó làm tăng yếu tố lạm phát cầu kéo. Nhưng phân tích lạm phát hiện nay cho thấy chủ yếu là do chi phí đẩy. Yếu tố cầu kéo là có, nhưng đóng góp một phần nhỏ, vì các thành phần tổng cầu nội địa và thế giới đều yếu. Ước lượng cho thấy lạm phát phía cầu chỉ đóng góp xấp xỉ 1,5 điểm % trong mức lạm phát kỳ vọng khoảng 4,5%, còn lại là do phía cung. Chính sách tiền tệ là chính sách phía cầu nên chúng ta không quá lo ngại về cái giá của lạm phát so với lợi ích của tăng trưởng ở điểm cân bằng tổng quát hiện nay của kinh tế Việt Nam.
Để kiểm soát lạm phát phải giải quyết chi phí đẩy, cụ thể là các loại chi phí do môi trường kinh doanh kém thuận lợi. Nguyên nhân nào thì giải pháp đó. Lạm phát từ phía chi phí thì giải quyết từ chi phí, không thể trị lạm phát chi phí đẩy bằng giải pháp phía cầu, vì nó sẽ khuếch sâu thêm hố cách suy thoái của nền kinh tế.
Vấn đề khác là lạm phát do cung tiền quá nhiều so với cầu tiền của nền kinh tế, mà cầu tiền được quyết định bởi mức thu nhập thực hay sản lượng của nền kinh tế. Điều này hàm ý rằng nếu tiền được bơm vào khu vực sản xuất kinh doanh, vào nền kinh tế thực, thì nó không những không tạo sức ép lạm phát mà còn giảm sức ép lạm phát. Do đó phải bơm tiền vào các dự án tạo ra năng lực sản xuất của nền kinh tế. NHNN phải có các chính sách điều tiết dòng tiền, làm sao thúc đẩy tiền cho đầu tư, cho sản xuất kinh doanh, làm tăng năng lực sản xuất hàng hoá. Song hành với đó là kích thích tiêu dùng của xã hội, bởi sản xuất hiện nay rất cần có sức cầu để tiêu dùng. Khi tạo ra năng lực sản xuất thực với lượng tiền bơm ra và có nhu cầu để hấp thụ thì không lo lạm phát, kể cả lạm phát kỳ vọng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Tin liên quan
Tin khác

Phấn đấu hết tháng 5/2025 không còn hồ sơ hoàn thuế tồn quá hạn

Sẽ có nghị định mới về quản lý ODA, vốn vay ưu đãi

Niềm tin vào đồng USD đang lung lay

Bệ phóng cho tăng trưởng năm 2025

Chuẩn hóa quy định nghề hoạch định tài chính cá nhân theo tiêu chuẩn quốc tế

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Ưu tiên thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ, kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8% trở lên

Đề xuất bãi bỏ một số Thông tư lĩnh vực tài chính doanh nghiệp
Lập Ban chỉ đạo về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng
