Kinh tế Việt Nam: Số hóa để bứt tốc
![]() | Kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào nửa cuối năm 2023 |
![]() | Hội thảo Khoa học Quốc gia: Kinh tế Việt Nam năm 2022 và triển vọng năm 2023 |
![]() | UOB hạ dự báo tăng trưởng GDP cả năm của Việt Nam |
Mục tiêu về tỷ trọng đóng góp của kinh tế số (KTS) trong GDP là 20% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Cho đến hết năm 2022, đóng góp của KTS là 14,3%, như vậy trung bình từ nay đến 2030, tỷ trọng này trong GDP cần tăng thêm 1,93% mỗi năm. Không ít khó khăn, thách thức để gia tăng được tỷ trọng này, song chúng ta cũng có nhiều cơ hội và dư địa để hiện thực hóa. Với việc phát triển KTS và xã hội số được Chính phủ đặt ở mức ưu tiên cao trong các chiến lược phát triển quốc gia; cùng với đó là nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương đã mang lại những kết quả ấn tượng, có nhiều cơ sở để tin tưởng Việt Nam sẽ thành công, thậm chí vượt cao hơn trong các mục tiêu đặt ra.
Những bứt phá ấn tượng
Theo nghĩa rộng, có thể hình dung KTS gồm ba cấu phần chính: KTS lõi ICT (bao gồm các lĩnh vực về CNTT và viễn thông); KTS Internet/nền tảng (KTS Internet); và KTS ngành/lĩnh vực (được tạo ra từ việc chuyển đổi số - CĐS, áp dụng công nghệ số vào hoạt động của các ngành/lĩnh vực). Như vậy, KTS là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số, tức không chỉ bao gồm các lĩnh vực về CNTT và viễn thông (ICT) hay các ngành nghề có mô hình kinh doanh gắn liền với Internet công nghệ số (KTS Internet) mà phải bao gồm cả các ngành, nghề truyền thống đang cố gắng đưa công nghệ số vào hoạt động của mình. Hiểu theo nghĩa rộng đó, tỷ trọng đóng góp của KTS trong GDP hiện nay đã khá lớn. Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, tỷ trọng KTS của Việt Nam đã đạt 14,26% GDP trong năm 2022 (tăng từ mức 11,91% năm 2021).
Quan điểm xuyên suốt của Chính phủ là lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực, nguồn lực của chuyển đổi số. Chuyển đổi số phải để người dân, doanh nghiệp hưởng lợi từ dịch vụ công, tiện ích xã hội thuận tiện hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và chính họ sẽ tạo ra nguồn lực cho sự phát triển. Thủ tướng Chính phủ |
Một ví dụ cụ thể là trong lĩnh vực ngân hàng, kết quả CĐS của ngành Ngân hàng thời gian vừa qua đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, giúp tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với dịch vụ tài chính nói chung, thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử. Theo kết quả khảo sát của báo cáo e-Conomy SEA 2022, ở khu vực thành thị của Việt Nam người sử dụng dịch vụ thương mại điện tử cao thứ 2 khu vực, chiếm tỷ lệ 96%, chỉ đứng sau Singapore (97%). Có tới 90% người tiêu dùng số dự định duy trì, thậm chí gia tăng sử dụng các nền tảng thương mại điện tử trong 12 tháng tới. Thêm vào đó, 29% người dùng dự tính chi tiêu nhiều hơn cho dịch vụ Tạp hóa trực tuyến; và 22% người dùng dự tính chi tiêu nhiều hơn ở dịch vụ giao đồ ăn. Cả ba lĩnh vực này tại Việt Nam đều ghi nhận mức độ "dự định sử dụng nhiều hơn" cao nhất trong ASEAN; đặc biệt hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) đã tăng trưởng rất cao.
Theo Vụ Thanh toán (NHNN), sau hơn một năm triển khai Quyết định số 1813/QĐ-TTg (về phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025), nhiều chỉ tiêu về TTKDTM đã đạt và vượt mức đề ra đến cuối năm 2025 theo Đề án. Đơn cử, so với năm 2021, giao dịch TTKDTM năm 2022 tăng 89,05% về số lượng và 32% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 139,32% về số lượng và 106,54% về giá trị; qua kênh Internet tăng 98,54% về số lượng và 50,24% về giá trị; qua phương thức QR Code tăng 225,36% về số lượng và 243,92% về giá trị. Trong khi đó, mục tiêu đề ra đến cuối năm 2025, tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng và giá trị giao dịch TTKDTM đạt 20 - 25%/năm.
Giờ đây, câu chuyện quét QR Code đã được thực hiện không chỉ để thanh toán một bữa ăn, cốc cafe mà được áp dụng ngay cả khi thanh toán những đơn hàng có giá trị lớn. Chỉ trong tích tắc tài khoản của người bán hàng đã báo tăng số dư, không lo bị nhầm lẫn hay các rủi ro khác khi nhận tiền mặt; trong khi đó người tiêu dùng cũng cảm thấy tự tin hơn ngay cả khi "không xu dính túi" mà vẫn có những cách thức để thoải mái chi tiêu. Đây cũng chính là dẫn chứng cụ thể nhất cho thấy ích lợi của CĐS và KTS mang lại, cho dù đóng góp rất nhiều vào quá trình này chính là những tác động của “giãn cách”, hạn chế tiếp xúc… mà Covid-19 đã gây ra trong suốt giai đoạn trước đó.
Mục tiêu tưởng xa, hóa gần
Một vài số liệu về kết quả đóng góp của KTS như vậy nhưng đã cho thấy khá phù hợp với các mục tiêu đặt ra. Cụ thể theo Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, đến năm 2025, KTS chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm; hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của ASEAN. Đến năm 2030, KTS chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm; hoàn thành xây dựng Chính phủ số và mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp.
![]() |
Căn cứ vào Nghị quyết 52 và Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về KTS và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định phát triển KTS và xã hội số được đặt ở mức ưu tiên cao trong các chiến lược phát triển quốc gia để đạt được các mục tiêu đề ra, qua đó góp phần đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, đạt mức thu trung bình cao vào năm 2030; và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045.
Chiến lược, các chính sách và văn bản pháp luật liên quan trong những năm vừa qua đã cho thấy rõ quan điểm, định hướng và sự coi trọng vai trò của KTS. Cùng với những kết quả tích cực bước đầu đạt được, rất nhiều báo cáo nghiên cứu cũng đã chỉ ra, Việt Nam có nhiều cơ hội và lợi thế để hưởng lợi từ nền KTS. Quy mô thị trường vượt 100 triệu dân; dân số trẻ, thích nghi nhanh và có học thức, am hiểu cũng như đam mê công nghệ; tỷ lệ sử dụng smartphone và Internet cao; CSHT số ngày càng phát triển giúp chi phí Internet và các dịch vụ viễn thông ngày càng rẻ… là những lợi thế lý giải tại sao Việt Nam đang có nền kinh tế Internet tăng trưởng thuộc diện nhanh và cao nhất khu vực; phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nở rộ, các mô hình kinh doanh mới liên quan đến KTS cũng phát triển rất nhanh.
Đánh giá “Tiềm năng KTS Việt Nam” của do AlphaBeta - Công ty tư vấn kinh tế chiến lược có kinh nghiệm làm việc với các chính phủ, DN, nhà đầu tư và các tổ chức - phát hành cho thấy, nếu được tận dụng tối đa, các công nghệ số có thể đem lại hơn 1,733 triệu tỷ đồng (74 tỷ USD) cho Việt Nam vào năm 2030, tương đương 27% GDP năm 2020 của Việt Nam.
“Kết nối tốt, giá cả hợp lý nhưng tốc độ còn chậm”
Thực tế, trong mức đóng góp 14,26% của KTS vào GDP năm 2022 kể trên, KTS lõi ICT đóng góp 7,18%; KTS ngành/lĩnh vực 4,28% và KTS Internet là 2,84%. Như vậy trong 3 cấu phần chính của KTS, cấu phần KTS lõi hiện đang cao hơn khá nhiều mức bình quân của toàn cầu nên dư địa tăng trưởng đột phá không còn nhiều. Tuy nhiên ở hai cấu phần KTS còn lại vẫn đang rất thấp so với các mức trung bình tương ứng của toàn cầu là 10% và 15%/GDP, do đó đây là những dư địa rộng lớn cho KTS phát triển trong những năm tới.
Chính vì vậy các chuyên gia rất kỳ vọng, với mức tăng trưởng thường xuyên cao gấp 1,5-3 lần tăng trưởng GDP (như số liệu thực tế các năm qua đã chứng minh), tỷ trọng đóng góp của KTS trong GDP sẽ tiếp tục tăng nhanh, cho thấy các mục tiêu đặt ra là khả thi. Thậm chí nhiều chuyên gia cho rằng với KTS, mức tăng trưởng có thể “tính bằng lần” qua mỗi năm, chứ không chỉ dừng lại ở 20-30%. Theo hướng nhìn lạc quan này, nếu thúc đẩy được toàn bộ nền kinh tế theo hướng số hóa, tỷ trọng đóng góp của KTS trong GDP hoàn toàn có thể vượt các mục tiêu đặt ra cho năm 2025 và 2030.
Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp của KTS trong GDP hiện nay vẫn còn cách khá xa so với các mục tiêu đặt ra và các thách thức phía trước cũng rất lớn. Như đã đề cập ở trên, mặc dù các cơ hội là rất lớn nhưng có tận dụng được không bản thân nó đã là một thách thức không nhỏ, nhất là trong bối cảnh đại dịch vừa qua, CĐS đã diễn ra và tăng tốc rất mạnh nên mới đạt được những kết quả như hiện nay. Giai đoạn từ nay đến năm 2025 và xa hơn là 2030, liệu tốc độ tăng trưởng của KTS có tiếp tục được duy trì, qua đó giúp đạt hoặc thậm chí vượt mục tiêu đề ra hay không là một vấn đề lớn.
Trong khi đó, CSHT số dù đã có sự phát triển nhưng vẫn đang ở mức thấp và vẫn còn nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro thiếu ổn định. Ví dụ rõ nhất là Việt Nam kết nối với quốc tế qua 5 tuyến cáp quang biển thì cả 5 tuyến này từ cuối năm 2022 đều gặp sự cố và đến nay chưa tuyến nào hoạt động hoàn toàn bình thường trở lại. Nghiên cứu “Việt Nam số: Con đường hướng tới tương lai” của WB đưa ra một đánh giá khá thú vị, nhưng đáng suy ngẫm: “Kết nối tốt, giá cả hợp lý nhưng tốc độ còn chậm”. Đánh giá này khá tương đồng với một nghiên cứu do Liên minh Internet châu Á (AIC) thực hiện, khi cho rằng tốc độ băng thông rộng trung bình ở Việt Nam vẫn chậm hơn đáng kể so với các nước khác trong khu vực ASEAN. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở dữ liệu còn manh mún, phân tán và việc xây dựng cơ sở dữ liệu, kết nối dữ liệu hiện nay chúng ta mới đang trong quá trình triển khai nên chưa cho thấy hiệu quả rõ nét; trong khi vấn đề an toàn, bảo mật thông tin còn nhiều thách thức… do đó chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển KTS.
Môi trường thể chế và pháp lý cho phát triển KTS cũng chưa chặt chẽ, đồng bộ và mang tính kiến tạo. Như liên quan đến đổi mới sáng tạo, báo cáo “đổi mới sáng tạo và Đầu tư công nghệ Việt Nam 2023” của Trung tâm đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) và Quỹ Do Ventures nhận định, Việt Nam hiện đang thiếu chính sách thúc đẩy phát triển đổi mới sáng tạo bền vững. Điều này đặt ra thách thức cho các công ty khởi nghiệp trong việc đảm bảo nguồn vốn, thu hút và giữ chân nhân tài, cũng như tuân thủ các quy định phức tạp. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và bổ sung các chính sách hỗ trợ để hệ sinh thái số phát huy hết tiềm năng.
Nguồn nhân lực phục vụ CĐS, phát triển KTS vẫn còn thiếu. Đây có lẽ là một trong những thách thức lớn nhất hiện nay. Theo số liệu Ủy ban Quốc gia về CĐS, tỷ lệ nhân lực CNTT trên tổng số lao động của Việt Nam ước tính đạt 1% (trong tổng số khoảng 51 triệu lao động). Về chất lượng, chỉ có khoảng 30% kỹ sư, cử nhân mới ra trường đáp ứng yêu cầu thực tế của công việc. Và càng đi vào các lĩnh vực công nghệ mới, đòi hỏi am hiểu chuyên sâu như: AI, Blockchain, Big Data, chuyên trách về bảo mật an toàn thông tin… thì nguồn nhân lực chất lượng cao lại càng khan hiếm hơn.
Hành động
Tháng 7/2022, Bộ Thông tin và Truyền thông có Quyết định 1354/QĐ-BTTT ban hành Bộ chỉ tiêu công cụ đo lường KTS, gồm 23 chỉ tiêu và được phân thành 3 cấp độ: Quốc gia; bộ/ngành và cấp tỉnh. Kèm theo đó là các hướng dẫn đo lường cụ thể. Đáng chú trọng cả ba cấp đều có chỉ tiêu về tỷ trọng đóng góp của KTS với nguồn lấy số liệu từ Tổng cục Thống kê và kỳ lấy số liệu theo quý (riêng cấp bộ/ngành và lĩnh vực lấy theo năm). Rất kỳ vọng từ những kết quả số liệu đo lường được, bức tranh về đóng góp của KTS trong GDP sẽ rõ ràng, chi tiết và lượng hóa cụ thể hơn. Cũng trên cơ sở đó, tiếp tục có các chính sách, giải pháp để thúc đẩy các cấu phần của KTS.
Đặc biệt với các số liệu, dữ liệu đóng góp của KTS đã được lượng hóa cụ thể thông qua các chỉ tiêu công cụ đo lường này, việc phát triển KTS ở các bộ, ngành, lĩnh vực, địa phương cụ thể cần tránh được tình trạng “dàn hàng ngang” (chỉ dựa trên căn cứ và mục tiêu chung của phát triển KTS của cả nền kinh tế). Thay vào đó, cần dựa trên thế mạnh và đặc điểm riêng của mình để đặt ra mục tiêu phù hợp và có lộ trình cho từng năm, qua đó góp phần đạt được các mục tiêu chung lớn vào năm 2025 và 2030.
Các quy định chuyển giao công nghệ quốc tế và cải tiến CSHT số đã và đang góp phần thúc đẩy phát triển CSHT số trong nước. Tuy nhiên các chuyên gia cũng cho rằng, cần tiếp tục các nỗ lực giải quyết những khoảng trống về phạm vi bao phủ của CSHT số, cũng như rào cản pháp lý mà các DN vẫn đang phải đối mặt để giúp họ kinh doanh, phát triển các ý tưởng đổi mới sáng tạo thuận lợi hơn. Một số tính toán cho thấy, trong giai đoạn 2020 - 2030, trung bình mỗi năm KTS có thể đóng góp từ 6,88% đến 16,5% trong 100% tốc độ tăng năng suất lao động. Tức là trong thập kỷ này, đóng góp của KTS là rất quan trọng đến năng suất và hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy, đây chính là một động lực mới cho cải thiện nhanh chóng năng suất lao động. Theo báo cáo của WB, bên cạnh hạ tầng số chất lượng và kết nối với giá cả hợp lý, thì lợi ích của công nghệ số mang lại ở mức nào sẽ chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố kỹ năng, khả năng ứng dụng, khai thác các công nghệ mới và thông tin/dữ liệu có được. Như vậy, CĐS có thể làm mất đi rất nhiều việc làm hiện có, nhưng đồng thời có thể tạo ra nhiều việc làm mới với những yêu cầu kỹ năng mới. Để có được những kỹ năng mới này, đòi hỏi sự nỗ lực từ mỗi cá nhân, DN và sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước. Cần tập trung mạnh mẽ vào việc trang bị cho nguồn nhân lực hiện tại và lực lượng lao động tương lai các kỹ năng số cần thiết để tiếp cận các cơ hội số, thông qua các chương trình đào tạo kỹ năng số dành riêng cho từng lĩnh vực, tăng cường cơ hội học nghề liên quan khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), đồng thời chú trọng hơn vào “kỹ năng mềm” trong chương trình giáo dục đào tạo để nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn lực, gia tăng năng suất lao động.
Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong phát triển nền KTS; tỷ trọng đóng góp của KTS vào GDP có xu hướng tăng nhanh. Tuy nhiên, thời gian cũng trôi nhanh và các mục tiêu lớn đặt ra đến năm 2025, năm 2030 đã cận kề. Chính vì vậy, giai đoạn 2023-2025 phải là khoảng thời gian nỗ lực bứt tốc, thúc đẩy hoạt động CĐS cụ thể trên nhiều ngành, lĩnh vực để đạt được mục tiêu như kỳ vọng.
Tin liên quan
Tin khác

Phấn đấu hết tháng 5/2025 không còn hồ sơ hoàn thuế tồn quá hạn

Sẽ có nghị định mới về quản lý ODA, vốn vay ưu đãi

Niềm tin vào đồng USD đang lung lay

Bệ phóng cho tăng trưởng năm 2025

Chuẩn hóa quy định nghề hoạch định tài chính cá nhân theo tiêu chuẩn quốc tế

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Ưu tiên thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ, kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8% trở lên

Đề xuất bãi bỏ một số Thông tư lĩnh vực tài chính doanh nghiệp
Lập Ban chỉ đạo về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng
