agribank-vietnam-airlines

Dự thảo sửa đổi Thông tư 36: Hướng tới chuẩn mực Basel II

Đỗ Lê thực hiện
Đỗ Lê thực hiện  - 
Dự thảo sửa đổi Thông tư 36 là vấn đề vĩ mô được chú ý nhất trong cả tháng qua. Việc sửa đổi là cần thiết nhưng cần nghiên cứu kỹ lưỡng và có lộ trình.
aa
Sửa Thông tư 36 không phải “siết” tín dụng
Đẩy mạnh quản trị theo chuẩn mực quốc tế
Áp dụng Basel II: Nâng cao năng lực cạnh tranh cho NHTM
Dự thảo sửa đổi Thông tư 36: Hướng tới chuẩn mực Basel II
TS. Cấn Văn Lực

Đây là quan điểm được TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia TC-NH chia sẻ với phóng viên Thời báo Ngân hàng.

Đánh giá của ông về dự kiến đưa tỷ lệ cho vay trung dài hạn từ mức 60% hiện nay về 40% theo dự thảo sửa đổi Thông tư?

Việc điều chỉnh tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ mức 60% hiện nay xuống 40% liên quan đến việc quản lý thanh khoản cho hệ thống NH, đặc biệt là quản lý những rủi ro liên quan đến độ lệch kỳ hạn.

Tỷ lệ này nếu cao quá thì có nghĩa hệ thống NH đang phải dùng nhiều vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, như vậy độ lệch về kỳ hạn sẽ lớn và đương nhiên rủi ro về thanh khoản và rủi ro lãi suất đối với NH sẽ tăng. Vì vậy tỷ lệ này cần được kiểm soát. Dự kiến điều chỉnh này cũng đồng thời phát đi tín hiệu để kiểm soát rủi ro tín dụng trung dài hạn khi tín dụng trung và dài hạn đã tăng khá nhanh thời gian vừa qua. Năm 2015, tín dụng trung dài hạn tăng khoảng 29%, trong khi bình quân tín dụng chung của hệ thống chỉ tăng 18%.

Các NH không nên quá lo ngại về con số 40% này. Bởi đến cuối 2015, tỷ lệ này mới dừng ở mức 31% (theo thống kê của NHNN), như vậy với mức 40% thì tức là vẫn còn room cho các NH tiếp tục cho vay. Tuy nhiên, có thể một số NHTM nhỏ vừa qua đã đẩy cho vay trung dài hạn lên nhiều thì tỷ lệ này có thể đã vượt ngưỡng 40% (dù vẫn đảm bảo dưới 60% hiện nay) nên họ có động thái rút về như thời gian vừa qua.

Thực tiễn trong thời gian vừa qua, một số NHTM đã đẩy lãi suất huy động kỳ hạn dài lên. Nguyên nhân chính có phải vì vấn đề mà ông vừa nói tới?

Theo tôi đây cũng là một yếu tố nhưng không phải là lý do chính yếu. Lý do chính của động thái này là vì hệ thống NH năm nay cần nguồn vốn trung, dài hạn để một mặt bù đắp phần tăng tín dụng trung dài hạn rất cao trong năm ngoái, vừa để phục vụ tín dụng trong năm nay với dự kiến tăng trưởng tín dụng cũng ở khoảng 18-20%.

Một lý do quan trọng khác là do thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) phát hành rất nhiều trong quý IV năm ngoái và quý I năm nay đã đẩy mặt bằng lãi suất TPCP cao hơn khoảng 0,5% - 0,7% so với cuối năm 2014 nên khiến khan hiếm nguồn vốn trung dài hạn và mặt bằng lãi suất huy động vốn bị đẩy lên.

Rất nhiều đánh giá cho rằng phần điều chỉnh trọng số cho vay với BĐS sẽ ảnh hưởng mạnh tới thị trường này, quan điểm riêng của ông thế nào?

Tôi cũng đồng ý với quan điểm sẽ có những tác động. Nếu Thông tư 36 sửa đổi như dự thảo thì hệ số rủi ro cho vay BĐS từ mức 1,5 lần sẽ tăng lên 2,5 lần so với thông thường, có nghĩa là hệ thống NH cần bổ sung vốn chủ sở hữu tương ứng để đảm bảo hệ số CAR luôn trên 9%. Phần bổ sung vốn tương ứng kia sẽ làm tăng chi phí vốn cho các NH. Hơn nữa trong điều kiện hiện nay việc bổ sung vốn cũng không dễ dàng.

Như vậy, hàm ý ở đây là các NH sẽ phải điều chỉnh đối với cho vay BĐS theo hướng hoặc không cho vay nữa, hoặc cho vay tiếp nhưng ở mức độ sàng lọc, chặt chẽ và có thể lãi suất cho vay sẽ cao hơn. Bởi lúc này, cho vay BĐS sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn, rủi ro cao hơn. Điều này hoàn toàn đúng theo quy luật thị trường.

Nhưng tác động tích cực của việc cần thiết điều chỉnh ở đây là một mặt sẽ góp phần hạn chế, kiểm soát việc cho vay BĐS “nghe” đã có vẻ nóng trong một, hai năm vừa qua, từ đó nắn dòng tín dụng vào các kênh sản xuất kinh doanh khác. Đây cũng là tín hiệu cảnh báo và nhắn nhủ các NHTM phải cẩn trọng hơn trong cho vay BĐS cũng như góp phần sàng lọc các dự án BĐS, giúp thị trường này phát triển lành mạnh, tích cực và bền vững hơn.

Dự thảo sửa đổi Thông tư 36: Hướng tới chuẩn mực Basel II
Sửa đổi Thông tư 36 sẽ giúp thị trường BĐS phát triển lành mạnh, bền vững hơn

Xét riêng trong hệ thống NH, Dự thảo sửa đổi này có những tác động nào đáng chú ý?

Dự thảo dự kiến điều chỉnh tỷ trọng nắm giữ TPCP của chi nhánh NH nước ngoài từ mức 15% vốn chủ sở hữu hiện nay lên 35%. Như vậy, các NH này sẽ có room rộng hơn để đầu tư nhiều hơn vào TPCP, qua đó kích thích và có thể tạo cú huých để phát triển thị trường trái phiếu. Điều này rất phù hợp với định hướng hội nhập của chúng ta hiện nay.

Quan trọng hơn là khi sửa đổi, điều chỉnh Thông tư 36 có lộ trình sẽ giúp hệ thống NHTM tiếp tục lành mạnh hóa, hoạt động theo thông lệ quốc tế nhiều hơn. Đây chính là bước giúp hướng tới chuẩn mực Basel II trong hoạt động NH.

Từ những vấn đề trên, ông có đề xuất và lưu ý gì?

Tôi cho rằng, việc sửa đổi Thông tư 36 có tác động đối với nền kinh tế và với hệ thống TC-NH. Do đó cần có tính toán, đánh giá tổng thể nhưng cũng rất cụ thể ở tất cả các góc độ: Người làm chính sách, đối tượng chịu tác động chính sách và người thụ hưởng cuối cùng - khách hàng.

Với trọng số rủi ro trong cho vay BĐS, như tôi đã phân tích ở trên, việc sửa đổi cần đảm bảo một mặt giúp ngăn thị trường BĐS phát triển quá nóng (trong bối cảnh 70% vốn BĐS vẫn từ NH), nhưng mặt khác vẫn tạo dư địa để thị trường phát triển theo hướng lành mạnh. Như vậy mức 250% là tương đối cao, và tôi cho rằng mức 200% là phù hợp.

Nên phân loại, phân khúc BĐS để gắn với các trọng số rủi ro hợp lý nhất. Với những phân khúc rủi ro cao thì áp luôn trần 200%, còn với những phân khúc ít rủi ro hơn như nhà ở xã hội thì áp trọng số thấp hơn. Như vậy thì chúng ta vẫn có định hướng để cho các NH tiếp tục lựa chọn cho vay đối với lĩnh vực này.

Để Thông tư sửa đổi đạt hiệu lực, hiệu quả cao nhất thì việc thực hiện Thông tư sửa đổi cũng cần có lộ trình và lộ trình này cần được đề cập rõ. Như với mỗi điều chỉnh cụ thể thì thời điểm hiệu lực ra sao, lộ trình thực hiện cụ thể như thế nào để không tạo ra cú sốc đối với thị trường.

Xin cảm ơn ông!

Đỗ Lê thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Trao đổi với phóng viên, GS.TS. Tô Trung Thành, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, đây cũng là cơ hội để Việt Nam phát huy động lực nội tại như kinh tế tư nhân, tiêu dùng trong nước… để hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Thị trường carbon tại Việt Nam đang được xây dựng với lộ trình rõ ràng từ Luật Bảo vệ môi trường 2020, hướng tới vận hành chính thức vào năm 2028, góp phần giảm phát thải và thu hút đầu tư quốc tế. Phóng viên Thời báo Ngân hàng phỏng vấn ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường ) để làm rõ những bước tiến trong hành lang pháp lý này.
Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Bàn về giải pháp đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, cần tập trung vào thúc đẩy các động lực tăng trưởng trong nước. Trong đó, nguồn lực đầu tư trong dài hạn phải đến từ khu vực tư nhân.
Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Chính sách thuế mới của Mỹ không chỉ là rào cản thương mại đơn thuần, mà là bài kiểm tra khả năng thích ứng, minh bạch và bền vững của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là nhận định của ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi (NTU) xung quanh câu chuyện Mỹ áp thuế đối ứng 46% với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam.
Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam đã chủ động giảm thuế nhiều loại hàng hóa nhập khẩu để hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ và các đối tác lớn trên tinh thần cùng phát triển. Song Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nền kinh tế bị Hoa Kỳ áp thuế đối ứng cao nhất, ở mức 46%. Bộ Tài chính đã có những ý kiến phản hồi xung quanh vấn đề này.
Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tăng trưởng GDP 8% vào năm 2025 và hướng tới hai con số trong giai đoạn tiếp theo, không thể chần chừ cải thiện từng phần mà phải dứt khoát tháo các điểm nghẽn đang kìm hãm năng lực phát triển của kinh tế tư nhân.Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có những phân tích trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Chất lượng giáo dục ưu tú là một trong những cách tốt nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững.
Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Khu vực DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV vẫn đang gặp phải không ít khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Dù chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp, DNNVV chỉ có tổng nguồn vốn đạt 16,6 triệu tỷ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng vốn hoạt động sản xuất kinh doanh toàn khu vực doanh nghiệp, với dư nợ tín dụng chỉ đạt gần 17,6%.

Những rủi ro toàn cầu nào đáng chú ý?

Các ngân hàng trung ương ở các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam dự kiến ​​sẽ chờ đợi thêm các động thái mới và không cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào các quyết định của Fed

Mặc dù lãi suất của Hoa Kỳ dự kiến ​​vẫn ở mức cao, nhưng sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã giúp các ngân hàng trung ương khu vực Đông Nam Á tự chủ hơn trong việc cắt giảm lãi suất dựa trên tình hình mỗi quốc gia.
AI
B - Edu
B - Finance
B - Data