agribank-vietnam-airlines

Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào các quyết định của Fed

Mặc dù lãi suất của Hoa Kỳ dự kiến ​​vẫn ở mức cao, nhưng sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã giúp các ngân hàng trung ương khu vực Đông Nam Á tự chủ hơn trong việc cắt giảm lãi suất dựa trên tình hình mỗi quốc gia.
aa
Các chuyên gia tài chính quốc tế cho rằng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một trường hợp khác biệt khi liên tục giảm lãi suất trong bối cảnh các nền kinh tế Đông Nam Á tăng lãi suất
Các chuyên gia tài chính quốc tế cho rằng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một trường hợp khác biệt khi liên tục giảm lãi suất trong bối cảnh các nền kinh tế Đông Nam Á tăng lãi suất
UOB: NHNN đang thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hỗ trợ kinh tế
UOB: Lãi suất sẽ giữ mức hiện tại, tăng biện pháp hấp thụ vốn

Những người theo dõi thị trường trên toàn thế giới đang hào hứng dự đoán kết quả cuộc họp tiếp theo của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) vào ngày 13/6. Gần hơn, các ngân hàng trung ương trong khu vực cũng đang chuẩn bị cho các cuộc họp quan trọng. Ví dụ, Ngân hàng Thái Lan (BOT) sẽ tổ chức đợt xem xét lãi suất tiếp theo vào ngày 12/6, trước quyết định của Fed.

Kỳ vọng về các quyết định của Fed và BOT khá đối lập. Trong khi những người theo dõi thị trường thường kỳ vọng Fed sẽ giữ quan điểm về mức lãi suất cao của mình, thì có nguồn tin trên thị trường rằng Thái Lan có thể sẽ tuyên bố cắt giảm lãi suất. Ở những nơi khác trên thế giới, Ngân hàng Trung ương châu Âu vào ngày 6/6 đã bắt đầu cắt giảm lãi suất từ ​​mức cao kỷ lục, 0,25 điểm phần trăm.

Singapore có chính sách tiền tệ độc đáo nhờ cách tiếp cận theo hướng tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, ít nhất, sự khác biệt như vậy giữa Fed và phần còn lại của Đông Nam Á dường như khó xảy ra hoặc thậm chí là không thể xảy ra.

Nếu nhìn ở khoảng thời gian xa hơn, sự khác biệt như vậy dương như khó xảy ra hoặc thậm chí là không thể xảy ra trong những năm trước. Các nền kinh tế trong khu vực bao gồm Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã phải gánh chịu nặng nề do dòng vốn chảy ra ngoài trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào cuối những năm 1990, với những cuộc suy thoái trên diện rộng, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt và đồng tiền mất giá khi các nhà đầu tư rút tiền ra.

Kể từ đó, lãi suất trong khu vực nhìn chung vẫn cao hơn lãi suất ở các thị trường phát triển, đặc biệt là Mỹ. Các loại tiền tệ của Đông Nam Á nhìn chung không thể mang lại sự an toàn và ổn định như đồng bạc xanh mang lại, do đó cần phải mang lại cho các nhà đầu tư mức lợi nhuận cao hơn đáng kể.

Tuy nhiên, mọi thứ đã thay đổi trong những năm gần đây. Khi lạm phát hậu COVID bắt đầu ảnh hưởng nặng nền vào cuối năm 2021, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã theo chân Fed trong việc tăng lãi suất. Có một điểm khác biệt lớn là mức độ thắt chặt tiền tệ thấp hơn nhiều. Với áp lực lạm phát ở Đông Nam Á ít nghiêm trọng hơn so với các nền kinh tế phát triển như Mỹ và châu Âu, các ngân hàng trung ương khu vực đã có thể kìm hãm áp lực giá cả bằng cách tăng lãi suất thấp hơn.

Fed đã tăng lãi suất cơ bản lên hơn 5 điểm phần trăm để đạt mức cao nhất 5,5% vào tháng 7/2023 và giữ nguyên lãi suất kể từ đó. Ngược lại, lãi suất của BOT chỉ ở mức 2,5% - tăng 2 điểm phần trăm trong chu kỳ thắt chặt này, trong khi lãi suất cao nhất của Ngân hàng Negara Malaysia ở mức 3%, tăng 1,25 điểm phần trăm. Lãi suất chính thức của Ngân hàng Indonesia là 6,25%, đánh dấu mức tăng 2,75 điểm phần trăm.

Mức tăng lãi suất lớn nhất ở Đông Nam Á là ở Philippines với mức tăng 4,5 điểm phần trăm lên mức lãi suất chính sách là 6,5%, mức tăng này thấp hơn mức tăng lãi suất của Fed.

Indonesia, Thái Lan, Philippines và Malaysia hiện có mức độ độc lập về chính sách tiền tệ cao hơn vì cán cân bên ngoài của họ - bao gồm vị thế tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - mạnh hơn nhiều và có khả năng phục hồi tốt hơn so với các giai đoạn trước. Bốn quốc gia này đã thâm hụt tài khoản vãng lai từ 3,4% đến 7,9% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 1996, năm trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.

Ông Enrico Tanuwidjaja - chuyên gia kinh tế ASEAN tại UOB
Ông Enrico Tanuwidjaja - chuyên gia kinh tế ASEAN tại UOB

Ngày nay, các số dư tài khoản vãng lai này mạnh hơn nhiều. Ví dụ, Indonesia thậm chí còn đạt thặng dư tài khoản vãng lai lên tới 1% GDP vào năm 2022 và ghi nhận mức thâm hụt nhỏ chỉ 0,1% GDP vào năm 2023, trong bối cảnh xuất khẩu các mặt hàng chủ chốt bùng nổ. Thái Lan cũng trở lại vị thế thặng dư 1,4% GDP vào năm 2023, sau khi thâm hụt trong hai năm liên tiếp kể từ năm 2020.

Malaysia đã đạt thặng dư tài khoản vãng lai ổn định ngay cả trước khi xảy ra đại dịch. Thặng dư đã giảm từ 3,1% GDP vào năm 2022 xuống còn 1,2% vào năm ngoái, nhưng chúng tôi dự kiến ​​sẽ tăng lên 2% trong năm nay.

Trong khi đó, sau COVID, thâm hụt tài khoản vãng lai của Philippines đã thu hẹp đáng kể từ 4,4 phần trăm GDP vào năm 2022 xuống chỉ còn 1,3% vào năm ngoái.

Những cải thiện này xuất hiện do những thay đổi lớn về mặt cấu trúc trong mỗi nền kinh tế. Điều này bao gồm các nỗ lực để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh, cải thiện việc giám sát trong lĩnh vực tài chính và tạo dựng một thị trường vốn minh bạch và thanh khoản hơn. Những thay đổi này vẫn đang tiếp tục. Indonesia gần đây đã bắt tay vào nhiều nỗ lực hạ nguồn hơn để thúc đẩy xuất khẩu giá trị gia tăng trong khi Thái Lan đã nới lỏng các hạn chế về thị thực để thúc đẩy lượng khách du lịch đến, từ đó sẽ tăng xuất khẩu dịch vụ của nước này.

Khi thế giới bước vào chu kỳ nới lỏng tiền tệ, các nền kinh tế Đông Nam Á có thể nới lỏng sớm hơn hoặc nhiều hơn. Với sự ổn định tài chính được cải thiện, các nền kinh tế này hiện có nhiều sự linh hoạt hơn để điều chỉnh lãi suất ở mức tối ưu để cân bằng mục tiêu tăng trưởng và lạm phát ở từng quốc gia tương ứng. Họ không còn cần phải theo dõi chặt chẽ các động thái của Fed nữa.

Hiện tại, ngân hàng trung ương Philippines có vẻ khá trung lập hoặc thậm chí là ôn hòa dựa trên tuyên bố quyết định chính sách tiền tệ mới nhất của mình. Việc cắt giảm lãi suất có thể sắp diễn ra và đồng tiền của nước này, đồng peso Philippines, là một trong những đồng tiền có khả năng phục hồi tốt hơn so với đồng đô la Mỹ. Quốc gia này có thể linh hoạt cắt giảm trước Fed mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định của đồng tiền, để hỗ trợ đà tăng trưởng đang yếu đi của mình.

Mặc dù có những lo ngại về nợ hộ gia đình ở Thái Lan, nhưng vị thế bên ngoài mạnh mẽ và lạm phát thấp của nước này có nghĩa là nước này cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy đà tăng trưởng. Đợt cắt giảm đầu tiên có thể diễn ra sớm nhất là vào đợt đánh giá sắp tới vào ngày 12/6.

Malaysia đã chứng kiến ​​tăng trưởng xuất khẩu của mình chậm lại, nhưng sức mạnh của nhu cầu trong nước có nghĩa là nước này có thể đủ khả năng duy trì lập trường chính sách tiền tệ của mình không thay đổi trong thời điểm hiện tại.

Indonesia có thể sẽ là quốc gia thận trọng nhất trong việc cắt giảm lãi suất do nguy cơ lạm phát nhập khẩu leo ​​thang. Ngoài ra, trong khi vị thế bên ngoài của đất nước đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua, Ngân hàng Indonesia có thể sẽ thận trọng trong việc giữ lãi suất ở mức cao để thu hút dòng vốn quay trở lại trong nước.

Singapore, mặc dù vận hành không thông qua cơ chế lãi suất trực tiếp mà thông qua chính sách tỷ giá hối đoái, cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, khi đà tăng trưởng đang chậm lại.

Bất kể mỗi ngân hàng trung ương làm gì, giờ đây họ có nhiều quyền tự do hơn trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ so với trước đây. Ảnh hưởng của Fed với tư cách là cơ quan ấn định lãi suất trên thực tế đang suy yếu, ít nhất là ở khu vực này của thế giới.

Enrico Tanuwidjaja - chuyên gia kinh tế ASEAN tại UOB

Tin liên quan

Tin khác

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Trao đổi với phóng viên, GS.TS. Tô Trung Thành, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, đây cũng là cơ hội để Việt Nam phát huy động lực nội tại như kinh tế tư nhân, tiêu dùng trong nước… để hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Thị trường carbon tại Việt Nam đang được xây dựng với lộ trình rõ ràng từ Luật Bảo vệ môi trường 2020, hướng tới vận hành chính thức vào năm 2028, góp phần giảm phát thải và thu hút đầu tư quốc tế. Phóng viên Thời báo Ngân hàng phỏng vấn ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường ) để làm rõ những bước tiến trong hành lang pháp lý này.
Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Bàn về giải pháp đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, cần tập trung vào thúc đẩy các động lực tăng trưởng trong nước. Trong đó, nguồn lực đầu tư trong dài hạn phải đến từ khu vực tư nhân.
Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Chính sách thuế mới của Mỹ không chỉ là rào cản thương mại đơn thuần, mà là bài kiểm tra khả năng thích ứng, minh bạch và bền vững của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là nhận định của ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi (NTU) xung quanh câu chuyện Mỹ áp thuế đối ứng 46% với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam.
Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam đã chủ động giảm thuế nhiều loại hàng hóa nhập khẩu để hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ và các đối tác lớn trên tinh thần cùng phát triển. Song Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nền kinh tế bị Hoa Kỳ áp thuế đối ứng cao nhất, ở mức 46%. Bộ Tài chính đã có những ý kiến phản hồi xung quanh vấn đề này.
Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tăng trưởng GDP 8% vào năm 2025 và hướng tới hai con số trong giai đoạn tiếp theo, không thể chần chừ cải thiện từng phần mà phải dứt khoát tháo các điểm nghẽn đang kìm hãm năng lực phát triển của kinh tế tư nhân.Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có những phân tích trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Chất lượng giáo dục ưu tú là một trong những cách tốt nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững.
Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Khu vực DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV vẫn đang gặp phải không ít khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Dù chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp, DNNVV chỉ có tổng nguồn vốn đạt 16,6 triệu tỷ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng vốn hoạt động sản xuất kinh doanh toàn khu vực doanh nghiệp, với dư nợ tín dụng chỉ đạt gần 17,6%.

Những rủi ro toàn cầu nào đáng chú ý?

Các ngân hàng trung ương ở các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam dự kiến ​​sẽ chờ đợi thêm các động thái mới và không cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Sự hấp dẫn của châu Á trong đa dạng danh mục đầu tư

Sự biến động khó lường của thị trường đã trở lại do lạm phát dai dẳng tại Mỹ, lộ trình cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và rủi ro địa chính trị trở nên căng thẳng hơn.
AI
B - Edu
B - Finance
B - Data