Xuất khẩu gỗ và lâm sản năm 2023 ước đạt 13,5 tỷ USD
Xuất khẩu gỗ và lâm sản tăng nhẹ Doanh nghiệp xuất khẩu gỗ cần chủ động hơn trước cáo buộc bán phá giá Gỗ xuất khẩu vẫn đối mặt nhiều nút thắt |
![]() |
Quang cảnh tọa đàm “Phát triển bền vững và những thách thức đặt ra cho ngành gỗ”. |
Chiều ngày 21/12, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các Hiệp hội Gỗ và Tổ chức Forest Trends phối hợp tổ chức tọa đàm “Phát triển bền vững và những thách thức đặt ra cho ngành gỗ”.
Năm 2023 là một năm thách thức của ngành gỗ Việt Nam. Nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ và EU giảm mạnh dẫn đến các đơn hàng sụt giảm, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, một số doanh nghiệp thậm chí phải đóng cửa.
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng của năm 2023 đạt 12,1 tỷ USD, tương đương 82,5% kim ngạch của năm 2022. Nếu đà xuất khẩu giữ ở mức như hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành năm 2023 sẽ đạt từ 13,5-14 tỷ USD, giảm 15,5% so với năm 2022. Thị trường hiện đã có một số dấu hiệu hồi phục, tuy nhiên theo nhận định của chuyên gia năm 2024 vẫn tiềm ẩn một số khó khăn cho ngành gỗ.
Ông Tô Xuân Phúc - Giám đốc điều hành Chương trình Chính sách, Thương mại và Tài chính Lâm nghiệp - Tổ chức Forest Trends cho biết, với thị trường EU, khoảng 77% tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU là các mặt hàng thuộc nhóm đồ gỗ (HS 9401 và HS 9403), gần 23% còn lại là các mặt hàng thuộc nhóm gỗ và bán nguyên liệu (HS 44). 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào thị trường EU giảm 32% so với cùng kỳ.
Theo ông Đỗ Xuân Lập, bên cạnh các khó khăn về đầu ra thị trường, ngành đang đối mặt với một số vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững của ngành. Thứ nhất, các thị trường xuất khẩu lớn ngày càng có các quy định chặt chẽ hơn về tính hợp pháp và bền vững của sản phẩm. Đơn cử, quy định chống phá rừng của EU (EUDR) có hiệu lực từ cuối tháng 6/2023 quy định các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường này phải đảm bảo tính hợp pháp và không gây mất rừng. Tiếp đó, yêu cầu cả ở trong nước và tại các thị trường xuất khẩu về mức phát thải carbon thấp trong các hoạt động của toàn chuỗi cung ứng nhằm đạt mục tiêu net zero ngày càng tăng.
Thứ 3, mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 1,5-2 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ có nguồn gốc từ các quốc gia nhiệt đới, là gỗ rủi ro về pháp lý, chiếm 30-40% tổng lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu của cả ngành.
Do đó các quy định trên không chỉ tác động tiêu cực tới toàn ngành gỗ Việt mà còn làm mất đi cơ hội trong việc sử dụng gỗ nhập khẩu rủi ro thấp và đặc biệt là nguồn gỗ rừng trồng trong nước có nguồn gốc từ hàng triệu nông hộ.
Chuyên gia nhận định, những yêu cầu cụ thể của EUDR đặt ra những thách thức lớn cho ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam. Trong đó, việc xây dựng chính sách, hạ tầng thông tin, để từ đó người nhập khẩu biết số gỗ đó được sản xuất ở khu đất nào, có đáp ứng được yêu cầu của EUDR hay không? Việc nguồn gốc gỗ chứng minh ở Việt Nam đã khó, nhưng việc chứng minh ở nước nhập khẩu còn khó hơn.
Theo ông Đỗ Xuân Lập, năm 2024 ngành gỗ vẫn nằm trong thế có nhiều bất ổn, do đó, về tổng thể, dự báo, ngành gỗ có tăng trưởng chậm, khoảng 10-12% so với cuối năm 2023. Giải pháp trọng tâm nhất trong năm 2024 đó là tạo ra hình ảnh ngành gỗ Việt Nam phát triển bền vững, dựa trên yếu tố cơ bản là sử dụng gỗ có chứng chỉ và sản phẩm giảm phát thải.
Tin liên quan
Tin khác

Phấn đấu hết tháng 5/2025 không còn hồ sơ hoàn thuế tồn quá hạn

Sẽ có nghị định mới về quản lý ODA, vốn vay ưu đãi

Niềm tin vào đồng USD đang lung lay

Bệ phóng cho tăng trưởng năm 2025

Chuẩn hóa quy định nghề hoạch định tài chính cá nhân theo tiêu chuẩn quốc tế

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Ưu tiên thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ, kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8% trở lên

Đề xuất bãi bỏ một số Thông tư lĩnh vực tài chính doanh nghiệp
Lập Ban chỉ đạo về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng
