agribank-vietnam-airlines

Tiếp tục gỡ vướng cho dòng chảy vốn

Hà Thành thực hiện
Hà Thành thực hiện  - 
NHNN vừa đưa ra dự thảo sửa đổi Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (Thông tư 01) theo hướng kéo dài thời hạn hỗ trợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Chính sách trên nếu được sửa đổi sẽ có tác động ra sao đối với hoạt động ngân hàng, DN. Phóng viên Thời báo Ngân hàng tham vấn ý kiến của TS. Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia ngân hàng.
aa
tiep tuc go vuong cho dong chay von Đảm bảo vốn cho các dự án hiệu quả, thế mạnh của Yên Bái
tiep tuc go vuong cho dong chay von Sẵn sàng nguồn vốn cho doanh nghiệp, người dân
tiep tuc go vuong cho dong chay von Không thiếu vốn cho doanh nghiệp đủ điều kiện vay
tiep tuc go vuong cho dong chay von
TS. Nguyễn Trí Hiếu

Quan điểm của ông về định hướng sửa đổi Thông tư 01?

Tôi hoàn toàn đồng ý với định hướng sửa đổi Thông tư 01 của NHNN. Về hướng kéo dài thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản cho vay, cho thuê tài chính phát sinh nghĩa vụ trả nợ trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2020 đến ngày 31/12/2020 tôi nghĩ là cần thiết. Vì sau ngày 23/1 cũng là giai đoạn dịch bệnh diễn ra phức tạp khiến các DN gặp nhiều khó khăn do hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ. Vì thời gian dịch bệnh diễn ra khá lâu nên không thể nào sau khi Chính phủ tuyên bố hết dịch mọi thứ trở lại bình thường. Chưa kể, ở nhiều nước trên thế giới dịch bệnh vẫn chưa kiểm soát được hết nên DN sẽ còn đối mặt với rất nhiều khó khăn chẳng hạn như ngành du lịch, kinh doanh khách sạn... phải mất thời gian dài họ mới có thể kinh doanh tốt trở lại. Do đó, DN cần có thời gian hồi phục dài hơn ít nhất là 6 tháng sau khi Thủ tướng công bố hết dịch.

Có ý kiến cho rằng, để giúp DN tiếp cận được vốn vay tốt hơn có thể cân nhắc giảm điều kiện tín dụng. Quan điểm của ông về vấn đề này?

Tôi cho rằng, không thể thực hiện hạ chuẩn cho vay được. Hạ chuẩn cho vay tức là chúng ta phải chấp nhận nợ xấu thời điểm hiện tại và cả trong tương lai. Đó là điều rất rủi ro cho hệ thống nên vấn đề hạ chuẩn là không thể. Đặc biệt trong lúc này nền kinh tế, DN suy yếu, nếu lơ là quản lý rủi ro trả giá đắt dù hiểu DN đang rất cần hỗ trợ.

Để DN vẫn có thể vay được vốn, mà ngân hàng không cần phải hạ chuẩn tín dụng thì cần phải tăng cường vai trò hệ thống Quỹ bảo lãnh tín dụng (BLTD) cho DNNVV. Chỉ có hệ thống này mới giúp DNNVV và DN đang bị tác động bởi dịch bệnh có thể vay được vốn mới tại các ngân hàng. Hiện tại tình hình tài chính của DN suy giảm, họ không còn TSBĐ, thanh khoản dòng tiền, nếu không có sự bảo lãnh của Quỹ BLTD thì họ không thể vay được vốn tại ngân hàng. Do vậy, vai trò của Quỹ BLTD lúc này là rất quan trọng. Nếu họ không nâng cao vai trò giúp DN tiếp cận vốn nhiều hơn, thì bước vào giai đoạn hồi phục rất nhiều DN không còn có mặt để đóng góp cho nền kinh tế nữa. Đây không những tạo rủi ro mà còn gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế.

Ngoài những chính sách hỗ trợ của Thông tư 01, có ý kiến đề xuất áp dụng các gói tín dụng của ngân hàng với lãi suất rất thấp, thậm chí chỉ là 0%. Ông có cho rằng nên triển khai chính sách này?

Đang có sự nhầm lẫn về các gói tín dụng. Theo tôi, những chương trình tín dụng hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng dịch Covid mà các NHTM đang triển khai là các chương trình của riêng mỗi ngân hàng thực hiện theo định hướng chỉ đạo của NHNN. Vốn cho vay từ các chương trình này là vốn các ngân hàng huy động từ người gửi tiết kiệm chứ không phải vốn ngân sách nên không thể đưa ra nhiều đòi hỏi như vậy. Thực tế, không phải đến thời điểm này các ngân hàng mới tung ra nhiều chương trình tín dụng cho các DN, nhất là DNNVV mà đây đều là đối tượng khách hàng trọng tâm của ngân hàng.

Nhưng như tôi nói ở trên, lúc này nếu không có sự vào cuộc quyết liệt của Quỹ BLTD thì khả năng tiếp cận vốn của DNNVV sẽ hạn chế rất nhiều. Muốn làm được vậy, theo tôi cần phải sửa đổi Nghị định 34/2018/NĐ-CP quy định về thành lập, tổ chức hoạt động của Quỹ BLTD cho DNNVV. Điều thay đổi đầu tiên là thay vì duy trì mô hình các Quỹ BLTD tại địa phương thì chỉ tập trung Quỹ BLTD quốc gia. Vì các Quỹ BLTD tại địa phương quy mô vốn nhỏ mà bị ràng buộc bởi nhiều quy định rất khó phát huy được vai trò hiệu quả. Chẳng hạn, một tỉnh có Quỹ BLTD với vốn điều lệ là 300 tỷ đồng, họ được phép bảo lãnh không quá 3 lần vốn tự có. Với một tỉnh hàng trăm nghìn DN thì 900 tỷ đồng như muối bỏ bể. Chưa kể quy định ràng buộc về trách nhiệm bảo toàn vốn… khiến cho các quỹ lại càng tỏ ra thận trọng hơn. Vì vậy, nên tập trung vào một đầu mối và tăng nguồn lực tài chính cho Quỹ BLTD quốc gia với vốn điều lệ khoảng 10 nghìn tỷ đồng. Và đặt chi nhánh tại các tỉnh thành trên cả nước. Hiện toàn quốc có 28 Quỹ BLTD với tổng nguồn vốn là hơn 1.450 tỷ đồng. Đây là số tiền quá nhỏ so với nhu cầu của cộng đồng DN, nhất là trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Tôi nghĩ việc cải tổ các Quỹ BLTD là vô cùng cần thiết.

Xin cảm ơn ông!

Hà Thành thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Trao đổi với phóng viên, GS.TS. Tô Trung Thành, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, đây cũng là cơ hội để Việt Nam phát huy động lực nội tại như kinh tế tư nhân, tiêu dùng trong nước… để hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Thị trường carbon tại Việt Nam đang được xây dựng với lộ trình rõ ràng từ Luật Bảo vệ môi trường 2020, hướng tới vận hành chính thức vào năm 2028, góp phần giảm phát thải và thu hút đầu tư quốc tế. Phóng viên Thời báo Ngân hàng phỏng vấn ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường ) để làm rõ những bước tiến trong hành lang pháp lý này.
Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Bàn về giải pháp đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, cần tập trung vào thúc đẩy các động lực tăng trưởng trong nước. Trong đó, nguồn lực đầu tư trong dài hạn phải đến từ khu vực tư nhân.
Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Chính sách thuế mới của Mỹ không chỉ là rào cản thương mại đơn thuần, mà là bài kiểm tra khả năng thích ứng, minh bạch và bền vững của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là nhận định của ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi (NTU) xung quanh câu chuyện Mỹ áp thuế đối ứng 46% với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam.
Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam đã chủ động giảm thuế nhiều loại hàng hóa nhập khẩu để hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ và các đối tác lớn trên tinh thần cùng phát triển. Song Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nền kinh tế bị Hoa Kỳ áp thuế đối ứng cao nhất, ở mức 46%. Bộ Tài chính đã có những ý kiến phản hồi xung quanh vấn đề này.
Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tăng trưởng GDP 8% vào năm 2025 và hướng tới hai con số trong giai đoạn tiếp theo, không thể chần chừ cải thiện từng phần mà phải dứt khoát tháo các điểm nghẽn đang kìm hãm năng lực phát triển của kinh tế tư nhân.Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có những phân tích trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Chất lượng giáo dục ưu tú là một trong những cách tốt nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững.
Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Khu vực DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV vẫn đang gặp phải không ít khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Dù chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp, DNNVV chỉ có tổng nguồn vốn đạt 16,6 triệu tỷ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng vốn hoạt động sản xuất kinh doanh toàn khu vực doanh nghiệp, với dư nợ tín dụng chỉ đạt gần 17,6%.

Những rủi ro toàn cầu nào đáng chú ý?

Các ngân hàng trung ương ở các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam dự kiến ​​sẽ chờ đợi thêm các động thái mới và không cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào các quyết định của Fed

Mặc dù lãi suất của Hoa Kỳ dự kiến ​​vẫn ở mức cao, nhưng sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã giúp các ngân hàng trung ương khu vực Đông Nam Á tự chủ hơn trong việc cắt giảm lãi suất dựa trên tình hình mỗi quốc gia.
AI
B - Edu
B - Finance
B - Data