agribank-vietnam-airlines

Ngân hàng đã thể hiện trách nhiệm mạnh mẽ

Nguyễn Vũ thực hiện
Nguyễn Vũ thực hiện  - 
Đó là nhận định của TS. Võ Trí Thành - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia khi đánh giá về những giải pháp mà ngành Ngân hàng đã triển khai trong thời gian qua để hỗ trợ nền kinh tế ứng phó với đại dịch Covid-19.
aa
ngan hang da the hien trach nhiem manh me
Tiến sĩ Võ Trí Thành

Ông đánh giá như thế nào về vai trò của ngành Ngân hàng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế duy trì sản xuất, vượt qua khủng hoảng của đại dịch?

Trong suốt quá trình phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới Việt Nam nói chung, vai trò của hệ thống ngân hàng là cực kỳ quan trọng. Lý do bởi Việt Nam là một quốc gia vẫn dựa cơ bản vào hệ thống ngân hàng, cho nên hệ thống ngân hàng đã đảm đương một trách nhiệm rất nặng nề. NHNN giữ vai trò quan trọng nhất trong thực thi điều hành chính sách tiền tệ.

Đặc biệt trong giai đoạn khó khăn vừa qua, ngân hàng đã thể hiện được trách nhiệm mạnh mẽ. Theo đó, ngay từ đầu năm 2020 NHNN là bộ, ngành đầu tiên đưa ra chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và vẫn tiếp tục đi cùng với chính sách hỗ trợ ấy cho đến thời điểm này và sắp tới nữa.

Có thể nói, thời gian qua hệ thống ngân hàng đã có nhiều chính sách, giải pháp rất có ý nghĩa cả trong vấn đề quản lý kinh tế vĩ mô, vi mô góp phần giúp doanh nghiệp, người dân vượt khó và bước đầu phục hồi sản xuất kinh doanh.

Với vai trò cơ quan quản lý chính sách tiền tệ, NHNN đã liên tiếp 3 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn ngắn, hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho TCTD giảm lãi suất cho vay, kéo mặt bằng lãi suất thấp xuống. Đây là điều kiện rất cơ bản.

Song song với đó, NHNN đã tạo ra khuôn khổ pháp lý giúp các TCTD kịp thời triển khai các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, vượt khó. Đó là ngay từ năm 2020 đến nay, NHNN đã 3 lần điều chỉnh, gia hạn các mốc thời gian của chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ tương ứng với sự ra đời của các Thông tư 01/2020/TT-NHNN, sau đó là Thông tư 03/2021/TT-NHNN và mới đây nhất Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-NHNN.

Các NHTM cũng đã chủ động trách nhiệm chia sẻ, đồng hành với doanh nghiệp, người dân thông qua việc tích cực giảm lãi suất cho vay, giảm phí dịch vụ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, cho vay mới với lãi suất thấp…

Tôi muốn nhấn mạnh thêm một số vấn đề để cho thấy nỗ lực của hệ thống ngân hàng trong một bối cảnh đặc biệt khó khăn. Bản thân NHNN, bên cạnh phải đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, phải có giải pháp hỗ trợ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phục hồi tăng trưởng kinh tế. Vấn đề đặt ra là dù hỗ trợ ra sao cũng không thể làm ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô được. Chúng ta đã có rất nhiều bài học đắt giá trong cả quá trình phát triển của mình rồi nên phải đặc biệt coi trọng.

Phía các ngân hàng cũng có cái khó. Chúng ta đều biết, hiện nay các ngân hàng cần tiếp tục cơ cấu để đáp ứng các tiêu chí tốt trong quản trị của quốc tế. Theo đó, ngân hàng phải tăng năng lực tài chính, quản trị rủi ro tốt, để đảm bảo hoạt động lành mạnh của hệ thống. Điều quan trọng hơn cả là nếu ngân hàng có vấn đề lớn thì không chỉ hệ thống ngân hàng mà cả nền kinh tế này cũng ảnh hưởng không nhỏ. Song, vì mối quan hệ cộng sinh ngân hàng - doanh nghiệp, họ đã thể hiện trách nhiệm bằng chính sách hành động và được thể hiện qua con số rất cụ thể tiết giảm chi phí, lợi nhuận… để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng.

Để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi trong giai đoạn mới, nhiều ý kiến cho rằng ngân hàng cần phải tham gia sâu hơn nữa. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào?

Chúng ta có thể yêu cầu những nỗ lực tiếp nữa của hệ thống ngân hàng. Nhưng như tôi nói ở trên, chúng ta phải hiểu trong bối cảnh mà hệ thống ngân hàng phải thực hiện rất nhiều những nghĩa vụ, trọng trách, nếu chỉ nỗ lực riêng của ngành Ngân hàng thì khó có thể hoàn thành trách nhiệm mà cần phải có sự đồng hành vào cuộc từ các bộ, ngành cho đến Chính phủ nói chung và cả Quốc hội. Theo tôi, cần có cơ chế, khuôn khổ pháp lý để ngân hàng thực thi các chính sách, vừa đảm bảo tính minh bạch, vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống.

Lấy một ví dụ là gói hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất qua Ngân hàng Chính sách xã hội chưa giải ngân được nhiều. Vấn đề vướng mắc ở đây theo tôi là về tiêu chí. Mà tiêu chí này thì không thể chỉ NHNN đặt ra được mà phải dựa vào các kiến nghị, đề xuất của các bộ, ngành khác như Bộ Lao động - Thương binh và xã hội... Cho nên chúng ta thấy sự phối hợp giữa các bộ, ngành với ngân hàng có ý nghĩa quan trọng để thực thi chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, cho người dân tốt hơn.

ngan hang da the hien trach nhiem manh me
Các TCTD triển khai đồng bộ nhiều giải pháp hỗ trợ khách hàng

Vậy chính sách tài khoá và tiền tệ cần phối hợp ra sao để đảm bảo mục tiêu kép Chính phủ đặt ra?

Hiện chúng ta vừa muốn hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ an sinh xã hội, nhưng lại vừa phải ổn định kinh tế vĩ mô, vừa đẩy mạnh phòng, chống dịch Covid-19. Vì thế, việc phối hợp chính sách tài khóa, tiền tệ lại càng quan trọng, phải có thêm nhiều công cụ, những chính sách rất đặc biệt.

Về liều lượng của công cụ thì dư địa của chính sách tài khóa tốt hơn rất nhiều, từ nợ công, thâm hụt ngân sách, khả năng huy động nguồn lực trong và ngoài nước với những điều kiện thuận lợi. Còn đối với chính sách tiền tệ dư địa dù còn nhưng giới hạn hơn nhiều so với tài khoá. Tỷ lệ tín dụng/GDP đã rất cao, rủi ro hệ thống ngân hàng vẫn còn mặc dù có nhiều cải thiện, nguy cơ lạm phát, nợ xấu gia tăng… Vì vậy, việc điều chỉnh chính sách hỗ trợ tập trung vào tài khóa nhiều hơn tiền tệ.

Nhưng tôi muốn lưu ý, trước mắt, chúng ta đang cần có nhiều chính sách hỗ trợ đủ mạnh cho kinh tế sớm hồi phục, nên chấp nhận các cân đối vĩ mô có thể bị xô lệch đôi chút như lạm phát cũng có thể nhích lên… Nhưng những năm tiếp theo, chúng ta phải sớm đưa các cân đối vĩ mô về mức ổn định trong tầm kiểm soát để hạn chế nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô, nhất là đối với lạm phát.

Xin cảm ơn ông!

Nguyễn Vũ thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

GS.TS Tô Trung Thành: Phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025

Trao đổi với phóng viên, GS.TS. Tô Trung Thành, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, đây cũng là cơ hội để Việt Nam phát huy động lực nội tại như kinh tế tư nhân, tiêu dùng trong nước… để hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường carbon từ tầm nhìn chiến lược

Thị trường carbon tại Việt Nam đang được xây dựng với lộ trình rõ ràng từ Luật Bảo vệ môi trường 2020, hướng tới vận hành chính thức vào năm 2028, góp phần giảm phát thải và thu hút đầu tư quốc tế. Phóng viên Thời báo Ngân hàng phỏng vấn ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường ) để làm rõ những bước tiến trong hành lang pháp lý này.
Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Muốn đạt mục tiêu tăng trưởng phải tập trung vào động lực trong nước

Bàn về giải pháp đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, cần tập trung vào thúc đẩy các động lực tăng trưởng trong nước. Trong đó, nguồn lực đầu tư trong dài hạn phải đến từ khu vực tư nhân.
Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Mỹ áp thuế 46%: "Giao điểm" để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế chủ động

Chính sách thuế mới của Mỹ không chỉ là rào cản thương mại đơn thuần, mà là bài kiểm tra khả năng thích ứng, minh bạch và bền vững của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là nhận định của ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi (NTU) xung quanh câu chuyện Mỹ áp thuế đối ứng 46% với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam.
Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ

Việt Nam đã chủ động giảm thuế nhiều loại hàng hóa nhập khẩu để hướng tới cân bằng thương mại với Hoa Kỳ và các đối tác lớn trên tinh thần cùng phát triển. Song Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nền kinh tế bị Hoa Kỳ áp thuế đối ứng cao nhất, ở mức 46%. Bộ Tài chính đã có những ý kiến phản hồi xung quanh vấn đề này.
Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Tháo “vòng kim cô” để kinh tế tư nhân tạo kỳ tích tăng trưởng

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tăng trưởng GDP 8% vào năm 2025 và hướng tới hai con số trong giai đoạn tiếp theo, không thể chần chừ cải thiện từng phần mà phải dứt khoát tháo các điểm nghẽn đang kìm hãm năng lực phát triển của kinh tế tư nhân.Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có những phân tích trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Đầu tư cho giáo dục để đảm bảo tăng trưởng bền vững

Chất lượng giáo dục ưu tú là một trong những cách tốt nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững.
Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Khu vực DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV vẫn đang gặp phải không ít khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Dù chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp, DNNVV chỉ có tổng nguồn vốn đạt 16,6 triệu tỷ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng vốn hoạt động sản xuất kinh doanh toàn khu vực doanh nghiệp, với dư nợ tín dụng chỉ đạt gần 17,6%.

Những rủi ro toàn cầu nào đáng chú ý?

Các ngân hàng trung ương ở các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam dự kiến ​​sẽ chờ đợi thêm các động thái mới và không cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào các quyết định của Fed

Mặc dù lãi suất của Hoa Kỳ dự kiến ​​vẫn ở mức cao, nhưng sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã giúp các ngân hàng trung ương khu vực Đông Nam Á tự chủ hơn trong việc cắt giảm lãi suất dựa trên tình hình mỗi quốc gia.
AI
B - Edu
B - Finance
B - Data