Đầu tư tài chính của doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước tăng 29%
Doanh nghiệp Nhà nước đang chậm chuyển mình
|
![]() |
Năm 2022, trong 67 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 569,55 triệu USD (giảm 240,65 triệu USD, tương ứng 29,70% |
Theo đó, năm 2022, có 94 dự án phát sinh doanh thu với tổng doanh thu là 9.688,55 triệu USD, tăng 24,43% so với năm 2021.
Trong đó 67 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 569,55 triệu USD (giảm 240,65 triệu USD, tương ứng 29,70% so với năm 2021).
Những con số trên được thể hiện tại báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2022 vừa được Chính phủ gửi tới Quốc hội.
Báo cáo của Chính phủ nêu rõ, theo báo cáo của các đơn vị, tính đến ngày 31/12/2022, có 30 doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện đầu tư ra nước ngoài theo hình thức trực tiếp đầu tư và đầu tư thông qua các công ty con cấp 1, cấp 2. Trong đó 10 doanh nghiệp thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc Phòng, 2 doanh nghiệp thuộc Bộ Xây Dựng.
Các Bộ Công Thương, Y tế: mỗi Bộ có 1 doanh nghiệp; UBND TP Hà Nội, TP.HCM mỗi thành phố có 2 doanh nghiệp; UBND các tỉnh: Hà Tĩnh, Đắk Lắk, An Giang: mỗi tỉnh có 1 doanh nghiệp.
Năm 2022, số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện là 61,55 triệu USD tại 14 dự án, chủ yếu tại các dự án của các công ty con của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); các dự án của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel).
Tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của các DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước và các công ty con đến ngày 31/12/2022 là 6.622,92 triệu USD (bằng 55,44% số vốn đầu tư đăng ký). Trong đó, PVN có số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện lớn nhất (4.026,93 triệu USD, chiếm 60,80% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài); tiếp theo là Viettel (1.471,90 triệu USD, chiếm 22,22%).
Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) đứng thứ ba (772,6 triệu USD, chiếm 11,67%). Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của 3 doanh nghiệp này chiếm 94,69% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của khối DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Báo cáo nêu, các lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài tiếp tục duy trì chủ yếu trong các lĩnh vực: dầu khí; viễn thông; trồng, chế biến mủ cao su và các lĩnh vực khác (khai thác khoáng sản; nông nghiệp; xây lắp, thương mại, vận tải hàng không…). Trong đó, lĩnh vực dầu khí, lĩnh vực viễn thông và lĩnh vực trồng, chế biến mủ cao su với 3 tập đoàn có số đầu tư lớn là các lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài lớn nhất. Số vốn đầu tư ra nước ngoài của 3 lĩnh vực này chiếm 96,41% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài.
Năm 2022, số tiền thu hồi là 427,43 triệu USD (trong đó lợi nhuận chuyển về nước là 235,75 triệu USD); chủ yếu là từ các dự án của PVN: 288,75 triệu USD (lợi nhuận chuyển về nước: 121,64 triệu USD, thu hồi khác: 107,12 triệu USD), Viettel: 97,06 triệu USD (lợi nhuận chuyển về nước là 53,18 triệu USD, thu hồi gốc và lãi cho vay từ cho vay cổ đông: 43,88 triệu USD).
Lũy kế đến ngày 31/12/2022, có 72 dự án đầu tư ra nước ngoài của 16 doanh nghiệp đã phát sinh các khoản thu hồi, với tổng số tiền lũy kế là 4.086,41 triệu USD (trong đó lợi nhuận chuyển về nước là 1.990,69 triệu USD, thu gốc và lãi vay từ cho vay cổ đông: 883,54 triệu USD, thu hồi khác: 1.212,17 triệu USD), bằng 61,70% tổng số vốn đã đầu tư ra nước ngoài.
năm 2022, có 94 dự án phát sinh doanh thu với tổng doanh thu là 9.688,55 triệu USD, tăng 24,43% so với năm 2021. Trong đó 67 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 569,55 triệu USD (giảm 240,65 triệu USD, tương ứng 29,70% so với năm 2021). Số lợi nhuận được chia trong năm của các nhà đầu tư Việt Nam là 254,74 triệu USD (giảm 30,09 triệu USD, tương ứng giảm 10,56% so với năm 2021).
Chính phủ cho biết, có 29 dự án bị lỗ (giảm 1 dự án so với năm 2021) với tổng số lỗ là 263,40 triệu USD (số lỗ giảm 72,12 triệu USD, giảm 21,50% so với năm 2021).
Đến ngày 31/12/2022, có 43 dự án có lỗ lũy kế (năm 2021 có 44 dự án), với tổng số lỗ lũy kế là 1.441,06 triệu USD (tăng 105,96 triệu USD, tương đương 7,94% so với năm 2021).
Báo cáo nhận định về cơ bản các doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động tăng lên, một số tập đoàn, tổng công ty đạt kim ngạch xuất khẩu lớn, thể hiện rõ vai trò trong việc góp phần bảo đảm một số cân đối lớn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, báo cáo cho rằng vẫn còn một số khó khăn hạn chế như hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. nguyên nhân của các tồn tại trên là do tư duy nhận thức về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước chưa thống nhất dẫn tới lúng túng trong hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước vẫn còn hiện diện trong nhiều ngành, lĩnh vực của Nhà nước không cần duy trì sở hữu vốn, còn tư tưởng chưa muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại.
Thời gian tới cần có cơ chế chính sách để doanh nghiệp nhà nước tham gia vào phát triển các lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, mang tính mới, có khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa. Các dự án thua lỗ, kém hiệu quả cần rà soát đánh giá làm rõ thực trạng của từng dự án và có phương án xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư dàn trải, ngoài ngành, ngoài lĩnh vực kinh doanh chính cần được giải quyết dứt điểm, bảo đảm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính.
Tin liên quan
Tin khác

Thu thuế qua sàn Thương mại điện tử vẫn còn nhiều thách thức

Bộ Xây dựng cắt giảm tối thiểu 30% điều kiện đầu tư kinh doanh không cần thiết

Sản lượng khai thác dầu khí của PVEP đạt 24,69 triệu tấn giai đoạn 2020-2025

Bình tĩnh trước khó khăn để củng cố sức mạnh nội tại

Ứng dụng AI trong kinh doanh và quảng bá sản phẩm

Đề xuất bãi bỏ một số Thông tư lĩnh vực tài chính doanh nghiệp

Thúc đẩy cải cách, tăng tính minh bạch và củng cố niềm tin nhà đầu tư

Gia tăng ứng dụng AI trong lĩnh vực tài chính

Hà Nội đưa mô hình tư vấn miễn phí hỗ trợ thành lập doanh nghiệp vào hoạt động
