Cung cấp thông tin cho ngành thuế: Vẫn cần cụ thể hóa
Hàng chục ngân hàng kết nối eTax Mobile
NHNN vừa có Công văn số 5454/NHNN-TTGSNH gửi các TCTD yêu cầu về việc cung cấp thông tin, phối hợp với cơ quan quản lý thuế. Như vậy, sau thời gian thí điểm triển khai việc cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của người nộp thuế cho cơ quan thuế tại 5 NHTM gồm: Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV và MB (từ tháng 6/2021 đến hết tháng 3/2022), việc cung cấp thông tin, phối hợp với cơ quan quản lý thuế đã chính thức được nhân rộng ra toàn hệ thống ngân hàng.
Theo ghi nhận của Tổng cục Thuế, đến cuối tháng 6/2022 để triển khai hệ thống eTax Mobile, cơ quan này đã hoàn thành kết nối xác thực tài khoản với 6 NHTM bao gồm: Vietcombank, BIDV, SCB, ACB, HDBank và TPBank. Các ngân hàng khác như: OCB, VietinBank, MB, VIB, LienVietPostBank, OceanBank, VietABank, Eximbank, Shinhan Bank… hiện cũng đang trong quá trình hoàn thiện kết nối thông tin xác thực tài khoản để người dùng kích hoạt eTax Mobile.
![]() |
Ngân hàng kết nối dữ liệu với eTax Mobile hướng dẫn khách nộp thuế qua điện thoại di động |
Ghi nhận từ các NHTM tại TP.HCM cho thấy, việc kết nối xác thực tài khoản với cơ quan thuế được thực hiện khá thuận lợi. Các thông tin ngân hàng cung cấp cho cơ quan thuế chỉ bao gồm nội dung mang tính xác minh. Còn các thông tin khác như: số dư tiền gửi, lịch sử thanh toán đều được tuyệt đối bảo mật. Vì vậy, khách hàng của các ngân hàng hoàn toàn có thể yên tâm đối với hoạt động chia sẻ dữ liệu này.
Từ góc độ pháp lý, bà Đinh Thùy Dung - Trưởng phòng Pháp lý, Công ty Luật Dương Gia cho biết, theo Điểm a, Khoản 2, Điều 30 Nghị định 126/2020/NĐ-CP thì các ngân hàng chỉ phải cung cấp các nội dung thông tin, bao gồm tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cấp và ngày mở - ngày đóng tài khoản. Việc cung cấp các thông tin liên quan đến giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản (theo Điểm c, Khoản 2, Điều 30) chỉ áp dụng đối với các trường hợp khách hàng thuộc danh sách bị thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, đồng thời phải được thủ trưởng cơ quan thuế có văn bản đề nghị và chịu trách nhiệm bảo mật thông tin thì ngân hàng mới cung cấp.
Do vậy các khách hàng bình thường hoàn toàn không cần lo ngại bị lộ thông tin, bởi bản thân các ngân hàng cũng phải thực hiện bảo mật thông tin khách hàng theo Điều 14 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và Điều 4 Nghị định số 117/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Thậm chí, Nghị định 117/2018/NĐ-CP còn nêu rõ, TCTD chỉ được cung cấp thông tin khách hàng cho tổ chức khác khi tổ chức yêu cầu cung cấp thông tin phải được quy định cụ thể bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội (Điểm a, Khoản 1, Điều 11).
Thẩm quyền và chế tài cần cụ thể hóa
Theo TS. Nguyễn Thị Kim Thoa - Khoa Luật Kinh tế, Đại học Ngân hàng TP.HCM, tổng hợp tất cả các văn bản pháp lý liên quan thì cho đến nay việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế đã xác định rõ chủ thể có nghĩa vụ phối hợp và chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin khách hàng cho cơ quan quản lý thuế theo luật định. Việc cung cấp thông tin khách hàng của các NHTM cho cơ quan quản lý thuế thuộc các giới hạn luật định của nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng, đồng thời nhằm thực thi hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, các ngân hàng có nghĩa vụ tuân thủ.
Tuy nhiên theo TS. Thoa, việc xác định người đại diện có thẩm quyền của cơ quan thuế có quyền yêu cầu NHTM cung cấp thông tin của khách hàng; các trường hợp cơ quan này được tiếp cận thông tin khách hàng; phạm vi, mục đích sử dụng thông tin khách hàng… cần phải được quy định một cách chặt chẽ hơn. Vì hiện nay, theo Khoản 9, Điều 10, Nghị định 117/2018/NĐ-CP thì chủ thể được quyền ký văn bản yêu cầu NHTM cung cấp thông tin khách hàng đã được mở rộng tối đa, bao gồm: Tổng Cục trưởng, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế; Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh tra Tổng cục Thuế; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thuế; Chi Cục trưởng, Phó Chi Cục trưởng Chi cục Thuế. Tuy nhiên, “Nghị định này không có hướng dẫn cụ thể về phạm vi, thẩm quyền theo phân cấp trong trường hợp ra văn bản yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin khách hàng. Điều này có thể gây ra tâm lý bất an đối với khách hàng của các TCTD”, bà nói.
Chính vì vậy, để hài hòa quyền được bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng, quyền của người nộp thuế và nghĩa vụ của ngân hàng trong việc cung cấp thông tin khách hàng cho cơ quan thuế, thì các văn bản luật liên quan cần bổ sung các quy định rõ ràng về đối tượng, tiêu chí khách hàng mà ngân hàng phải cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, từ đó xác định rõ phương thức cung cấp, quy trình phê duyệt của cơ quan thuế khi yêu cầu NHTM cung cấp thông tin khách hàng.
Theo TS. Thoa, đây là nội dung quan trọng bởi nếu pháp luật chỉ ghi nhận NHTM có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho cơ quan thuế có thể dẫn đến “lạm quyền” và “gây ra những lo lắng từ phía khách hàng”, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Ngoài ra, cũng theo TS. Thoa, các văn bản luật liên quan cần quy định rõ cơ chế giải quyết khi có mâu thuẫn trong việc yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng. Trường hợp giữa TCTD và cơ quan quản lý thuế có bất đồng về việc cung cấp thông tin khách hàng thì sẽ được giải quyết theo cơ chế pháp lý nào? Ví dụ, thời hạn cung cấp thông tin, phạm vi thông tin khách hàng của các NHTM cần phải cung cấp cho cơ quan quản lý thuế theo quy định nội bộ của ngân hàng hay theo quyết định của cơ quan thuế.
Bên cạnh đó, cơ chế giải quyết khiếu nại, bồi thường thiệt hại phát sinh trong trường hợp làm lộ thông tin khách hàng cũng cần được quy định cụ thể. Đồng thời chế tài nhằm xử lý các hành vi cung cấp thông tin, yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng không đúng thẩm quyền, hoặc làm lộ các thông tin của khách hàng trong quá trình thực hiện các quy định về cung cấp thông tin khách hàng cho các cơ quan thực thi pháp luật về thuế cũng cần bổ sung để thống nhất thực hiện.
Ngày 8/8, NHNN đã có Công văn số 5454/NHNN-TTGSNH gửi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) về việc cung cấp thông tin, phối hợp với cơ quan quản lý thuế. Theo đó, NHNN đề nghị các TCTD căn cứ các quy định tại Luật Quản lý thuế 2019; Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế; Nghị định 117/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của TCTD và các Thông tư, văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) về cung cấp thông tin để thực hiện cung cấp thông tin, phối hợp với cơ quan quản lý thuế theo đúng quy định. |
Tin liên quan
Tin khác

Chênh lệch giá vàng mua – bán tăng: Rủi ro cao cho nhà đầu tư

Sáng 14/4: Tỷ giá trung tâm giảm 37 đồng

Lan tỏa tín dụng chính sách ở Quảng Ngãi

Sáng 12/4: Bạc xanh tiếp tục lao dốc

Giải pháp thanh toán không tiền mặt cho hệ thống xe buýt công cộng

Lãi suất gửi tiền 1 tháng tại các ngân hàng hiện ra sao?

UOB kỳ vọng lãi suất điều hành sẽ được giữ nguyên

Bảo hiểm nông nghiệp – "tấm khiên" vững chắc cho Hợp tác xã

Sáng 11/4: Tỷ giá trung tâm quay đầu giảm trở lại
