agribank-vietnam-airlines

Có nên giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc?

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh
TS. Nguyễn Thị Kim Thanh  - 
Cần sự cân nhắc thận trọng trong việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong tình hình hiện nay để phát huy tính hiệu quả của công cụ này.
aa
TCTD tham gia cơ cấu lại TCTD yếu kém được giảm dự trữ bắt buộc
Sửa đổi, bổ sung quy chế dự trữ bắt buộc đối với các TCTD

Công cụ dự trữ bắt buộc với lịch sử hình thành là để sử dụng nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của các NHTM. Nó được coi là công cụ mạnh để NH Trung ương hút tiền về khi lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ không ngừng đổi mới và hoàn thiện.

Theo đó, nghiệp vụ thị trường mở đã được hình thành và ngày càng phát triển đã thay thế dần được tính năng cơ bản của công cụ dự trữ bắt buộc là đảm bảo khả năng thanh khoản và thu hút tiền về. Vì vậy, một số quốc gia đã loại bỏ công cụ dự trữ bắt buộc khỏi hệ thống điều hành chính sách tiền tệ, bởi mặt trái của công cụ này là một hình thức đánh thuế vào hoạt động của các NHTM.

Có nên giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc?
Ảnh minh họa

Đối với Việt Nam, từ những năm 1990 - giai đoạn đầu của sự phát triển, công cụ dự trữ bắt buộc được xem như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ. Pháp lệnh NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là 10%, tối đa là 35%. Nhưng trên thực tế NHNN chỉ quy định ở mức 10% cho đến khi có sự ra đời của Luật NHNN năm 1997, thì cho phép NHNN được điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc linh hoạt hơn (Luật chỉ quy định mức tối thiểu là 0%).

Từ tháng 7/2000, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được hình thành và không ngừng phát triển cho đến ngày nay, công cụ này có tính năng mạnh trong việc hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM. Theo đó, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc để hỗ trợ thanh khoản đã yếu dần, dường như công cụ dự trữ bắt buộc chỉ còn giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết dòng tiền. Điều này có thể được minh chứng qua việc NHNN giữ tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức thấp và tương đối ổn định trong gần 5 năm qua.

Cụ thể, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các dòng vốn huy động tiền gửi VND ngắn hạn ở mức 3%, dòng vốn huy động tiền gửi trung và dài hạn ở mức thấp hơn chỉ là 1% để khuyến khích các NHTM thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động, tăng cường huy động vốn trung và dài hạn, giảm huy động ngắn hạn. Riêng huy động ngoại tệ ngắn ở mức 8%, trung và dài hạn 6%. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau giữa VND và ngoại tệ là sự phối hợp đồng bộ với các công cụ lãi suất nhằm mục tiêu chống đô-la hóa.

Để khuyến khích dòng vốn chảy vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với lĩnh vực này được quy định ở mức thấp hơn 1 điểm phần trăm, tương ứng với 7% ngắn hạn và 5% trung dài hạn. Riêng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND trong cho vay nông nghiệp nông thôn giảm 2 điểm phần trăm so với mức thông thường, tức chỉ còn 1%.

Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định như hiện nay, nhìn chung là thấp và tạo ra được sự chênh lệnh để điều tiết dòng vốn theo mục tiêu. Nếu tiếp tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống mức thấp hơn nữa (1-2% hoặc xuống bằng 0%) thì liệu có thể tạo được sự chêch lệch để khuyến khích dòng vốn? Câu trả lời là không. Hiện nay, thanh khoản của hệ thống NH đang ở mức dồi dào, biểu hiện trên thị trường liên NH là các NHTM đã hạ thấp lãi suất cho vay lẫn nhau và NHNN liên tiếp hút ròng về qua kênh nghiệp vụ thị trường mở.

Trong tình hình như vậy thì NHNN có hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng không có ý nghĩa nhiều giúp các NHTM có thêm nguồn vốn để đầu tư và giảm phần nào chi phí hoạt động để giảm lãi suất cho vay.

Mặt khác, trong tình hình lạm phát đang có xu hướng gia tăng, việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ phát đi tín hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ, gây ra những hoang mang nhất định cho thị trường, nhất là những nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong tình hình hiện nay, cần có sự cân nhắc thận trọng để phát huy tính hiệu quả của công cụ này.

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh

Tin liên quan

Tin khác

Việt Nam cần chuẩn bị nhiều kịch bản để ứng phó với chính sách thuế quan

Việt Nam cần chuẩn bị nhiều kịch bản để ứng phó với chính sách thuế quan

Việc Mỹ công bố áp thuế đối ứng 46% đối với hàng hoá của Việt Nam vào nước này gây bất ngờ lớn và đặt ra nhiều thách thức đối với kinh tế Việt Nam. Song TS. Võ Trí Thành - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng vẫn còn cơ hội đàm phán đồng thời cũng là cơ hội để mở ra cơ hội để củng cố nội lực và phát triển năng lực sản xuất trong nước.
Cần đồng bộ các giải pháp để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững

Cần đồng bộ các giải pháp để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững

Tại Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chủ yếu dựa vào kênh tín dụng ngân hàng, một phần nhỏ qua bảo lãnh và cho thuê tài chính, cùng với vốn tự có và vốn đối tác như trả chậm, thư tín dụng, trong khi các nguồn vốn thay thế như quỹ đầu tư hay thị trường trái phiếu vẫn còn rất hạn chế.
Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Cần giải pháp mạnh để DNNVV tiếp cận vốn hiệu quả

Khu vực DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV vẫn đang gặp phải không ít khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Dù chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp, DNNVV chỉ có tổng nguồn vốn đạt 16,6 triệu tỷ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng vốn hoạt động sản xuất kinh doanh toàn khu vực doanh nghiệp, với dư nợ tín dụng chỉ đạt gần 17,6%.
Dẫn lối dòng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Dẫn lối dòng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Doanh nghiệp tư nhân nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, là một trong số những nhóm khách hàng được ngành Ngân hàng ưu tiên cấp vốn tín dụng thông qua nhiều cơ chế, chính sách. Đây là những vấn đề được ông Trần Anh Quý, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) chia sẻ tại Hội thảo Phát triển hệ sinh thái nhằm nâng cao tiếp cận toàn diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam diễn ra ngày 26/3/2025.
Doanh nghiệp nhỏ cần liên kết để mở rộng cơ hội vay vốn ngân hàng

Doanh nghiệp nhỏ cần liên kết để mở rộng cơ hội vay vốn ngân hàng

Đó là chia sẻ của Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam Nguyễn Văn Thân tại Hội thảo "Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân" do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 21/3.
Đa dạng hoá kênh huy động vốn, tạo đột phá cho kinh tế tư nhân

Đa dạng hoá kênh huy động vốn, tạo đột phá cho kinh tế tư nhân

Nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng để kinh tế tư nhân nói chung, doanh nghiệp tư nhân nói riêng, phát triển bền vững. Vì vậy, hỗ trợ kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thuận lợi là nhiệm vụ quan trọng mà ngành Ngân hàng luôn chú trọng.

Cần nhiều giải pháp hỗ trợ để bảo hiểm nông nghiệp phát huy vai trò, tiềm năng

Ông Đỗ Minh Hoàng – Thành viên Hội đồng quản trị Bảo hiểm Agribank (ABIC) cho biết Bảo hiểm Agribank (ABIC) cho biết, hiện vẫn còn tồn tại nhiều nguyên nhân khiến loại hình bảo hiểm nông nghiệp chưa phát huy được vai trò.

Tăng tính tuân thủ và minh bạch để ngừa rủi ro sở hữu chéo

Đây là khẳng định của nhiều chuyên gia tại Hội thảo “Xây dựng các tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” diễn ra ngày 5/12, do Tạp chí điện tử VietTimes phối hợp với Hội Truyền thông số Việt Nam tổ chức.

VDSC: Tăng trưởng tín dụng đến hết quý III khoảng 10,5%

Theo nhận định của CTCP Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), tăng trưởng tín dụng của ngành Ngân hàng đến hết quý III/2024 khoảng 10,5%. Trong đó, các ngân hàng có tăng trưởng kinh doanh mạnh nhất đạt từ 30%-124%

Quản trị dữ liệu trở thành "chìa khóa" để thành công

Ngày 19/9, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) phối hợp với công ty PwC Việt Nam, SVTECH và các đối tác tổ chức hội thảo "Tận dụng dữ liệu để thành công", giúp các ngân hàng nắm bắt xu hướng mới nhất trong lĩnh vực quản trị dữ liệu, nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trong bối cảnh môi trường số hóa ngày càng phức tạp.
AI
B - Edu
B - Finance
B - Data