Muốn phát triển, TTCK phải tạo được niềm tin cho NĐT
![]() | Để cổ phiếu vốn hóa lớn hấp dẫn nhà đầu tư ngoại |
![]() | Bỏ qua IR là bỏ lỡ NĐT tiềm năng |
Dưới góc nhìn của mình, ông Nguyễn Duy Hưng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho biết, nếu cách đây 18 năm, từ chỗ đi dò dẫm xem TTCK hoạt động như thế nào thì nay mọi người đều xác định rằng TTCK là kênh huy động vốn quan trọng của DN và của nền kinh tế. Song để tổ chức, DN huy động được vốn, thì cả thành viên thị trường và cơ quan quản lý phải làm thế nào để cho các NĐT quan tâm đến thị trường này.
![]() |
TTCK là kênh huy động vốn quan trọng của DN và của nền kinh tế |
“Tất cả nằm ở hai khía cạnh: với thị trường thì phải minh bạch, còn với NĐT thì phải khiến cho họ có niềm tin khi tham gia thị trường này”, ông Hưng kết luận.
Đồng hành cùng TTCK từ ngày thành lập, Chủ tịch SSI cho biết, thị trường tài chính bản thân nó không sinh ra tiền mà tiền nằm ở trong tài khoản tiết kiệm của các NĐT. Ngay cả các NĐT nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng sử dụng tiền tiết kiệm, tiền nhàn rỗi của từng cá nhân tại thị trường của họ. Thế nên, nếu coi TTCK là kênh song song với ngân hàng thì phải xây dựng được thể chế để TTCK cạnh tranh được với hệ thống ngân hàng.
Hiện nay tổng tín dụng khoảng 7,5 triệu tỷ đồng, tương đương 130% GDP. Còn với TTCK, năm 2018 tuy các chỉ số đều tăng trưởng âm, nhưng vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng trên 2 con số. Tổng vốn hóa thị trường trong năm 2018 đạt hơn 3,96 triệu tỷ đồng, tăng 12,7% so với thời điểm cuối năm 2017. Trong đó, vốn hóa tại sàn HoSE vẫn là lớn nhất với 2,87 triệu tỷ đồng (tăng 10% so với 2017). Vốn hóa sàn UPCoM tiếp tục có sự tăng trưởng vượt bậc với 677.700 tỷ đồng (tăng 32% so với năm trước).
Dù có số vốn hóa như vậy nhưng ông Hưng cho biết tài sản thật thấp hơn rất nhiều. Phần lớn được hình thành từ vốn nhà nước khi thực hiện thoái vốn và cổ phần hóa DNNN. Toàn bộ trái phiếu DN chỉ chiếm khoảng 100.000 tỷ đồng nhưng tập trung chủ yếu vào một số DN lớn như Hoàng Anh Gia Lai, Masan và Vingroup… và những người đang giữ các trái phiếu DN chủ yếu lại là ngân hàng.
Lý giải nguyên nhân của câu chuyện này, ông Hưng cho rằng vì tất cả mọi người đang cho rằng việc hình thành TTCK là nơi đến để mua vào, rút ra nhanh, để kiếm tiền và sau đó chuyển đi nơi khác mà chưa tạo được niềm tin cho các NĐT thấy rằng TTCK là nơi đầu tư, giữ tiền, giữ tài sản.
Nguyên nhân khác là ngay các DN tham gia TTCK cũng chưa hình thành được nghĩa vụ phải đồng hành với NĐT, cùng quyền lợi với NĐT, coi NĐT là chủ thực sự khi đầu tư vào DN của mình. Mà họ chỉ coi NĐT là chỗ có thể thu hút dòng tiền để giải quyết việc riêng của DN.
“Chúng tôi là DN tham gia vào hầu hết các thương vụ lớn huy động vốn trên TTCK Việt Nam từ bán vốn cho Vinamilk đến tham gia huy động vốn cho Vingroup… Rất may tất cả các thương vụ SSI thực hiện đều được các NĐT nước ngoài đánh giá cao. Nhưng không ít thương vụ khi ra nước ngoài huy động vốn, nhiều NĐT nói thẳng là các vị coi chúng tôi như cây ATM. Tức là các ông thích rút tiền thế nào thì rút mà không đồng hành cùng với NĐT. Chưa bàn đến chuyện họ đúng hay sai nhưng đó là ý kiến chủ quan của họ. Nhưng những gì họ phát biểu thì chúng ta phải suy nghĩ vì khi những phát biểu này lan truyền thì niềm tin với thị trường của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng”, ông Hưng trăn trở.
Để hóa giải những hạn chế này, đại diện SSI cho rằng, hiện vẫn có một số lượng rất lớn là NĐT nhỏ lẻ tham gia TTCK, họ không hiểu biết nhiều về chứng khoán, vì vậy UBCKNN cần đề xuất với Bộ Tài chính và Chính phủ để làm sao xây dựng được quỹ chỉ số linh động hơn. Hiện nay quyền cấp quỹ chỉ số là sở giao dịch chứng khoán, nhưng chỉ số này còn có phù hợp với thị trường hay không thì cần phải đánh giá.
Ông đề nghị UBCKNN, Bộ Tài chính xem xét cho các tổ chức tài chính trung gian được trực tiếp xây dựng quỹ chỉ số. Lúc đó sở giao dịch, UBCKNN hay Bộ Tài chính sẽ đóng vai trò xét duyệt chấp nhận hay không chấp nhận. Việc để các tổ chức trung gian tài chính cũng giúp các quỹ chỉ số mang tính thị trường hơn và gắn với thị trường hơn. Trên thực tế, các chỉ số hiện nay lưu hành trên thế giới và uy tín nhất cũng không thuộc sở nào mà thuộc các tổ chức tài chính như Morgan Stanley…
Với NĐT nước ngoài họ chỉ quan tâm đến những thương vụ lớn nên đối với những công ty vào rổ chỉ số, đề nghị UBCKNN cần đưa ra các yêu cầu khắt khe hơn, thậm chí buộc phải kiểm toán bởi Big4 là điều kiện tiên quyết tối thiểu nhất. Nếu không các DN sẽ làm bài toán ngược, họ sẽ đáp ứng yêu cầu bằng định lượng để được vào rổ chỉ số. Việc công bố thông tin phải bắt buộc cả bằng ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, thậm chí thông tin của DN trong rổ chỉ số phải được kiểm toán trước khi công bố.
NĐT cá nhân là vấn đề quan tâm nhất với các nhà quản lý vì họ đầu tư rất ít tiền nhưng khi họ bị mất tiền thì lại kêu rất to. Để giải quyết vấn đề này, ông Hưng cho rằng đây là lúc chỉ số của tổ chức tài chính trung gian phải được phát triển và lan tỏa đến NĐT. Tuy nhiên cần có cơ chế để các quỹ này phải đáp ứng được nhu cầu của NĐT và cơ quan quản lý. “NĐT trong nước và nước ngoài không sợ thua lỗ, cái người ta lo là không công bằng và không minh bạch”, ông Hưng nhấn mạnh.
Tin liên quan
Tin khác

Ghi nhận phiên tăng mạnh nhất lịch sử, VN-Index tăng 74 điểm

Bài 4: PAN - Từ doanh nghiệp trung bình thành gã khổng lồ nhờ quản trị tiên phong

Áp lực bán mạnh chưa dừng lại, VN-Index tiếp tục rơi gần 80 điểm

Bài 3: Quản trị công ty - chìa khóa nâng hạng thị trường chứng khoán

Bài 2: Quản trị công ty tại Việt Nam đứng trước nhiều thách thức

Bài 1: Quản trị công ty - lá chắn và bệ phóng cho doanh nghiệp Việt trong kỷ nguyên hội nhập

Đẩy mạnh công nghệ trong lĩnh vực chứng khoán - bước đi chiến lược

Kinh tế Việt Nam có nền tảng vững chắc để ứng phó với biến động

TTCK phái sinh tháng 3/2025: khối lượng giao dịch bình quân tăng 4,95%
