Rủi ro gia tăng, kinh tế khó hồi phục mạnh như kỳ vọng

Môi trường bên ngoài khó khăn và sức cầu trong nước suy yếu đang làm cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại và dù kỳ vọng kinh tế sẽ tăng tốc trong nửa cuối năm nhưng dự kiến cả năm nay GDP chỉ tăng trưởng ở mức 4,7%, theo bản cập nhật kinh tế mới nhất của Ngân hàng Thế giới (báo cáo Điểm lại) công bố ngày 10/8/2023.
Liên kết - chìa khóa giúp kinh tế hợp tác cất cánh WB dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, ở mức 4,7% năm 2023

Trong, ngoài đều khó khăn

WB đánh giá môi trường bên ngoài vẫn còn nhiều thách thức với những rủi ro theo chiều hướng tiêu cực trong ngắn hạn. Cùng với việc tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang chững lại, dự kiến tăng trưởng giảm xuống mức 2,1% trong năm 2023, so với mức 3,1% trong năm 2022; tăng trưởng thương mại toàn cầu dự kiến cũng giảm từ 6% trong năm 2022 xuống chỉ còn 1,7% trong năm 2023. Với Việt Nam, tăng trưởng kinh tế giảm mạnh trong nửa đầu năm 2023 (tăng 3,7% so cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 6,4% nửa đầu năm 2022). Theo bà Dorsati Madani, chuyên gia kinh tế cao cấp của WB, nguyên nhân chính do sức cầu bên ngoài giảm mạnh. “Điều này ảnh hưởng đến kết quả của khu vực xuất khẩu - ước đóng góp khoảng 50% cho GDP của Việt Nam - thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2023 giảm 12% so cùng kỳ năm trước”, chuyên gia này phân tích.

Bên cạnh đó, sức cầu trong nước cũng chững lại do sự giảm dần hiệu ứng xuất phát điểm thấp của giai đoạn phục hồi sau COVID năm ngoái. Tốc độ tăng trưởng chi tiêu tiêu dùng cuối giảm, chỉ còn 2,7% so với cùng kỳ năm trước, so với mức 6,1% (cùng kỳ) trong 6 tháng đầu năm 2022. Việc tổng cầu giảm cũng được phản chiếu ở phía sản xuất (tổng cung), trong đó đóng góp của khu vực công nghiệp cho tăng trưởng giảm xuống 0,4% trong nửa đầu năm, so với 2,8% cùng kỳ năm trước. Chưa kể, ảnh hưởng của cú sốc cầu xuất khẩu còn trầm trọng hơn do tình trạng thiếu điện liên tục ảnh hưởng đến miền Bắc Việt Nam trong tháng 5 và tháng 6/2023 (WB ước tính gây ra những tổn thất ở mức 0,3% GDP).

Đóng góp của khu vực công nghiệp cho tăng trưởng giảm xuống 0,4% trong nửa đầu năm
Đóng góp của khu vực công nghiệp cho tăng trưởng giảm xuống 0,4% trong nửa đầu năm

Triển vọng thời gian tới, Việt Nam sẽ vẫn phải đối mặt với rủi ro gia tăng trong nước và bên ngoài. Nhìn từ bên ngoài, bà Dorsati Madani đưa ra một số rủi ro chính bao gồm tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc, qua đó có thể khiến sức cầu bên ngoài tiếp tục giảm, ảnh hưởng đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Những bất định kéo dài trên thị trường tài chính toàn cầu có khả năng lại làm dấy lên căng thẳng trong khu vực ngân hàng trên toàn cầu, càng khiến cho các nhà đầu tư né tránh rủi ro và không khuyến khích đầu tư - bao gồm cả vốn FDI vào Việt Nam. Chính sách tiền tệ thắt chặt mạnh mẽ hơn ở các nền kinh tế phát triển quy mô lớn nhằm chống lạm phát kéo dài, có thể nới rộng chênh lệch lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Điều này có thể gây áp lực về tỷ giá đối với đồng nội tệ. Hơn nữa, căng thẳng địa chính trị leo thang và thiên tai liên quan đến khí hậu có thể làm gia tăng rủi ro theo hướng không khả quan cho Việt Nam, bao gồm cả thông qua giá lương thực thực phẩm và nhiên liệu tăng lên.

Nhìn từ trong nước, các hoạt động kinh tế chững lại, đầu tư tư nhân giảm xuống, cầu nội địa yếu đi; khu vực tài chính đang đối mặt với những rủi ro và nguy cơ dễ tổn thương; giải ngân đầu tư công dù cải thiện nhưng vẫn thấp (chỉ bằng 30,5% dự toán ngân sách năm ở thời điểm cuối tháng 6/2023)… là những thách thức chính được chỉ ra. Do đó, dù các chuyên gia WB kỳ vọng nền kinh tế sẽ tăng tốc trong nửa cuối năm nay, nhưng với mức tăng trưởng GDP chỉ 3,7% trong nửa đầu năm 2023, báo cáo Điểm lại dự báo tăng trưởng cả năm 2023 sẽ chỉ ở mức 4,7%, sau đó tăng dần lên 5,5% vào năm 2024 và 6,0% vào năm 2025. Về lạm phát, CPI bình quân dự kiến ở mức 3,5% trong năm 2023, sau đó giữ ổn định ở mức 3,0% trong các năm 2024 và 2025 (trên cơ sở kỳ vọng giá năng lượng và hàng hóa cơ bản sẽ ổn định).

Dư địa tiền tệ đã hạn hẹp, tài khóa là trọng tâm

Bà Dorsati Madani phân tích, sau các đợt cắt giảm lãi suất chính sách liên tục từ tháng 3 đến tháng 6/2023 của NHNN, mặt bằng lãi suất đã giảm nhưng tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm vẫn giảm (từ 16,8% so cùng kỳ trong tháng 6/2022 xuống còn 7,8% so cùng kỳ trong tháng 6/2023). Điều đó cho thấy nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp và sức hấp thụ vốn đang yếu đi. “Trong bối cảnh nhu cầu tín dụng không cao, cơ chế truyền dẫn yếu, việc cắt giảm lãi suất thêm nữa có lẽ sẽ không mang lại hiệu quả gì nhiều trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, cắt giảm lãi suất sẽ làm tăng chênh lệch lãi suất với các thị trường trên toàn cầu, có khả năng gây áp lực cho tỷ giá”, chuyên gia này nhận định. Do đó, dư địa để nới lỏng thêm không còn nhiều và chính sách tiền tệ sẽ không thể phát huy hiệu quả như chính sách tài khóa trong bối cảnh ngắn hạn, nhất là tăng trưởng bị ảnh hưởng do tổng cầu suy giảm hiện nay.

“Nền kinh tế Việt Nam đang gặp thách thức từ các yếu tố bên trong và bên ngoài. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể hỗ trợ tổng cầu thông qua đầu tư công hiệu quả, qua đó tạo việc làm và kích thích hoạt động kinh tế”, bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cho biết tại buổi công bố báo cáo Điểm lại.

Chính sách tài khóa chủ động hỗ trợ nhu cầu ngắn hạn là đề xuất được báo cáo Điểm lại đề xuất. “Dư địa tài khóa còn dồi dào, chính sách tài khóa cần đóng vai trò chủ đạo, đảm bảo ngân sách đầu tư năm 2023 được triển khai tốt hơn rõ rệt. Chính phủ đã lên kế hoạch nâng đầu tư công thêm 38% (so cùng kỳ) cho năm 2023 - tương đương 1,6% GDP. Công tác triển khai đang được đẩy nhanh, khi giải ngân vốn đầu tư công ước tăng tới 43,3% so cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm 2023. Mặc dù vậy, tiến độ triển khai đầu tư công lâu nay thường vẫn chậm”, báo cáo chỉ ra.

Nói cách khác, theo bà Dorsati Madani, là vẫn có thách thức trong triển khai. Về giải pháp để thúc đẩy chất lượng và hiệu quả đầu tư công, những bước đi đó có thể bao gồm: Xác định chỉ tiêu giải ngân đầu tư và đảm bảo hiệu lực thực thi, trách nhiệm giải trình ở các cấp chính quyền khác nhau để hoàn thành chỉ tiêu; tập trung cao độ để giải ngân các chương trình đầu tư quan trọng của quốc gia, như đường cao tốc, truyền tải điện và các chương trình mục tiêu quốc gia; cho phép có sự linh hoạt trong các quy định về phân bổ ngân sách được xác định trong Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội; cho phép được linh hoạt phần nào để thực hiện một số hoạt động đấu thầu sớm trước khi phân bổ ngân sách…

Bên cạnh đầu tư công, các chính sách nhằm hỗ trợ người lao động và các hộ gia đình bị ảnh hưởng khi kinh tế chững lại thông qua nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đảm bảo an sinh xã hội cũng là cách để hỗ trợ cho tổng cầu. Để làm được điều đó, các cấp có thẩm quyền cần cải tiến cách tiếp cận lựa chọn đối tượng và cơ chế cung cấp hỗ trợ trong hệ thống an sinh xã hội để hỗ trợ cho những người dễ tổn thương. Trong trung hạn, chính sách tài khóa cũng giúp nâng cao tính bền vững cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Chẳng hạn, thông qua loại bỏ các hạn chế đối với việc thực hiện hiệu quả đầu tư công và giải quyết các điểm nghẽn cơ sở hạ tầng sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Chính sách tài khóa cũng có thể giúp nâng cao khả năng chống chịu biến đổi khí hậu bằng cơ chế khuyến khích sản xuất và tiêu dùng xanh. Thuế các-bon và các công cụ tài khóa khác nếu được triển khai có thể khuyến khích các ngành công nghiệp giảm phát thải các-bon và áp dụng các biện pháp bền vững hơn. Bên cạnh đó, các công cụ chính sách tài khóa có thời hạn - như ưu đãi thuế hoặc trợ giá cho các sản phẩm thân thiện sinh thái - nhằm khuyến khích tiêu dùng xanh sẽ là cách khuyến khích các cá nhân lựa chọn sản phẩm theo cách có ý thức về môi trường.

Đường dẫn bài viết: https://tbnhnew.mastercms.vn/rui-ro-gia-tang-kinh-te-kho-hoi-phuc-manh-nhu-ky-vong-142820.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://tbnhnew.mastercms.vn/ All right reserved.