Tái hiện một giai đoạn văn học
Tập tản văn “Vén Mây” do NXB Hội Nhà văn vừa ấn hành là tập sách thứ 3 của Võ Chân Cửu viết về 20 năm văn học miền Nam. Tập sách gồm 15 bài tản văn tiếp nối tập “Theo dấu nhà thơ”, ngoài ra còn có phần ngoại tập gồm 2 bài viết về Hàn Mạc Tử, Bích Khê và những ghi nhận của một số tác giả.
![]() |
Bìa sách Vén Mây của Võ Chân Cửu, NXB Hội Nhà văn |
Ngay ở những chương đầu tiên của tập tản văn, chúng ta thấy dường như tác giả dành nhiều nỗ lực giới thiệu bối cảnh tổng quan của thi ca miền Nam trước 1975 với những tên tuổi như: Nguyễn Đức Sơn, Thanh Tâm Tuyền, Nhất Tuấn, Du Tử Lê, Trần Dạ Từ, Nhã Ca…
Trong đó, Võ Chân Cửu chú trọng nhấn mạnh đến những tác giả, tác phẩm đã tạo nên những hiện tượng đặc biệt một thời như: Trần Đới (đại đức Thích Thông Bác), Nguyễn Tất Nhiên (với nhiều bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc: Thà như giọt mưa, Em hiền như ma xơ…), Linh Phương (với bài thơ Phạm Duy phổ nhạc: Kỷ vật cho em).
Trong hai chương “Đâu những chân cầu?” và “Nước chảy chân cầu”, tác giả như tản mạn đôi điều về bài thơ “Ngồi lại chân cầu” nổi tiếng của Hoài Khanh, nhưng chừng như lại cố ý nói nhiều về hai tác giả xứ Quảng: Hà Nguyên Thạch và Hoàng Lộc. Năm 1967, NXB Ngưỡng Cửa cho phát hành tập thơ “Chân cầu sóng vỗ” của Hà Nguyên Thạch, một nhà thơ được độc giả Sài Gòn lúc bấy giờ ái mộ và giới thiệu hai bài thơ “Chân cầu sóng vỗ” và “Phù ảo”, đồng thời, nhấn mạnh: Đến hôm nay Hà Nguyên Thạch vẫn giữ nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại tiếng sóng vỗ dưới chân cầu.
Còn với Hoàng Lộc, theo nhận định của tác giả: Đây là một trong những nhà thơ nổi bật của đất Quảng Đà. Cảng thị Hội An, nơi anh sinh ra không xa mấy với làng thơ Vĩnh Điện. Anh có thơ đăng trên các tạp chí văn học nổi tiếng từ giữa thập niên 1960, cùng thời với các nhà thơ tên tuổi vùng đất này như: Luân Hoán, Đynh Hoàng Sa, Đynh Trầm Ca, Nguyễn Nho Nhượn… Nhưng thơ anh dễ nhớ hơn vì có rất nhiều bài hay.
Thú vị và tâm đắc với người viết hơn cả, có lẽ là chương “Lục bình trôi xa” viết về Đynh Trầm Ca và Đynh Hoàng Sa. Đynh Trầm Ca lớn hơn Võ Chân Cửu gần 10 tuổi, thời bấy giờ ngoài việc nổi tiếng là một nhà thơ còn được biết đến là người viết ca khúc có tên tuổi (điển hình là bài hát Ru con tình cũ ra đời năm 1967).
Giới thiệu về nhà thơ - nhạc sĩ này, ngoài các lời ca “Ru con tình cũ” và bài thơ “Rượu cuối năm bên bờ kinh phương Nam”, tác giả còn nhân sự trùng hợp chữ “Y dài” trong bút danh Đynh Trầm Ca, để nhắc đến một nhà thơ thân hữu khác là Đynh Hoàng Sa.
Tập thơ đầu tay của Đynh Hoàng Sa có tựa đề Vùng trú ẩn hoang đường, được Ngưỡng Cửa xuất bản tại Đà Nẵng vào năm 1966, lúc này được giới văn nghệ đánh giá là “giọng thơ rất lạ, mang màu sắc triết lý mà vẫn rất gần với cuộc đời”. Trong bài thơ “Cũng may” trích dẫn có đoạn: “Cũng may còn có mấy nhiêu/Vỡ tan khắc khoải niềm yêu hận sầu/Đắng cay đớn hận về sau/Ráng mà thực tế xô nhào lầu thơ”.
Đặc biệt, nhắc đến Phan Duy Nhân, tác giả đã giới thiệu các tác phẩm “Thư cho mẹ và chị” và Tự tình với Huế” đan xen trong các chương khác nhau. Những thế hệ học sinh những năm 1960 đều biết đến Phan Duy Nhân với tác phẩm Thư cho mẹ và chị, nói lên nỗi lòng của ông trước cảnh nước mất nhà tan: “... Tình thuở trước đắp cao dần nấm mộ/Trong lòng con cỏ mọc đã vàng hoe!”. Thế nhưng tên tuổi của Phan Duy Nhân mới thật sự được khẳng định khi bài thơ Thư gửi các bạn sinh viên ra đời... Đây cũng là một trong những bài thơ đầu tiên thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của sinh viên, học sinh miền Nam.
Mở ra một góc nhìn khác
Võ Chân Cửu tên thật là Văn Hưng, quê quán Bình Định. Thành danh từ 1969 ở miền Nam lúc này. Thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí văn học nghệ thuật: Văn, Bách Khoa, Tư Tưởng, Khởi Hành, Thời Tập, Chính Văn… Ông đã xuất bản các tập thơ Tinh Sương (Thi Ca - 1972), Đại Mộng (Nhị Khê 1973), Trường ca Quảy đá qua đồng (Tập san Thi ca 1975), Ngã tư vầng trăng (NXB Trẻ-1990), Ngọn Gió (NXB Văn Học 2011), Trước Sau (NXB Thư Ấn quán, Hoa Kỳ 2011).
Bộ tản văn về chủ đề Văn học miền Nam gồm 3 cuốn: 22 Tản mạn, Theo dấu nhà thơ và mới đây là Vén Mây do NXB Hội Nhà văn liên kết với Công ty sách Phương Nam xuất bản, phát hành. Trong đó, Vén Mây đầy ắp những hoài niệm mà theo tác giả Võ Chân Cửu: “Vì lẽ, những tác giả, nhân vật được nhắc đến ở các bài đều là người mà người viết đã gặp gỡ, cùng tâm tình trò chuyện”.
Nhà báo Khắc Dũng của báo Lâm Đồng chia sẻ sau khi đọc Vén Mây. Không có nghĩa Võ Chân Cửu đã làm công việc của một nhà làm sử văn học viết về một giai đoạn văn học miền Nam trước 1975, cũng không phải là công việc của một nhà văn “vẽ” lại chân dung những nhà thơ, nhà văn đã sống và sáng tác trong giai đoạn ấy.
Mà theo suy nghĩ thiển cận của chúng tôi, đây là những đoản khúc viết về những nhà thơ, nhà văn với tư cách là người trong cuộc, là kẻ dấn thân; viết bằng những cảm xúc rất thật về những điều rất thật; và viết theo một thể loại văn chương mà có lẽ ở Việt Nam chưa có tiền lệ - tản mạn pha ghi chép.
Theo GS. Huỳnh Như Phương: “Đặt tên cho cuốn sách thứ ba - mà tác giả nói là cuốn cuối cùng trong bộ sách về văn chương miền Nam - là Vén Mây, ý hẳn Võ Chân Cửu muốn gợi ra hình ảnh “Vén Mây… nẩy trăng”. Nói theo Milan Kundera, sáng tác văn chương là một cách vén màn, những bức màn của ảo tượng và ma thuật, cho người đời nhìn thấy thực tướng của thế giới từng bị che phủ, như mặt trăng khuất sau làn mây. Dù sao, hành động “vén mây” đó cũng chỉ mở ra một cái nhìn khác về đời sống văn chương, vốn cần đến nỗ lực của nhiều người để có thể xóa đi phần nào tấm màn đan dệt bởi thiên kiến và ngộ nhận trong sự giải thích và phán xét”.
Có lẽ chính vì như vậy mà chúng ta không bất ngờ, khi theo dòng chảy miên man của tập tản văn Vén Mây, là nhiều gương mặt thi sĩ một thời vang bóng.
Đường dẫn bài viết: https://tbnhnew.mastercms.vn/nhung-thi-si-mot-thoi-vang-bong-65285.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://tbnhnew.mastercms.vn/ All right reserved.