Lái dòng vốn để tăng chất

Lái dòng vốn vào nền kinh tế, vào khu vực sản xuất thực là rất quan trọng để tăng chất lượng tín dụng. 
Yêu cầu tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu
Tăng trưởng tín dụng hợp lý gắn với xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng
Ngân hàng và bài toán chất lượng tín dụng
Lái dòng vốn để tăng chất
Bà Nguyễn Thị Mùi

Đây là quan điểm được TS. Nguyễn Thị Mùi, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia đưa ra khi trả lời phỏng vấn phóng viên TBNH.

Bà nhìn nhận thế nào về động thái chính sách sau khi có cuộc chuyển giao người đứng đầu tại một số bộ, ngành, đặc biệt là NHNN, thời gian qua?

Ở các bộ, ban, ngành, trong và sau thời điểm chuyển giao bộ máy, thông thường tâm lý lo ngại là dễ có tình trạng “tân quan, tân chính sách”.

Riêng với NHNN, nhìn vào sự điều hành của Tân Thống đốc thời gian vừa qua, có thể thấy đã có khá nhiều văn bản được NHNN ban hành, nhưng theo quan sát của tôi thì tính kế thừa và nhất quán trong điều hành rất rõ.

Bởi những văn bản mới được ban hành không phải theo hướng thay đổi hẳn những cơ chế, chính sách trước đây mà bổ sung, hoàn thiện ở mức độ cao hơn, cụ thể hơn, chặt chẽ và phù hợp hơn với diễn biến của thị trường tài chính tiền tệ trong bối cảnh hiện nay. Nó cũng thể hiện sự thích ứng và linh hoạt đối phó với các diễn biến mới của nền kinh tế.

Lái dòng vốn để tăng chất
Để tăng chất lượng tăng trưởng tín dụng, kiểm soát và lái dòng vốn vào sản xuất kinh doanh là rất quan trọng

Dẫn chứng nào cho thấy chính sách tiền tệ đã thích ứng và linh hoạt ứng phó với các diễn biến mới của nền kinh tế, thưa bà?

Rất nhiều dẫn chứng có thể đưa ra. Ví dụ điển hình như ban đầu Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36/2014/TT-NHNN được đưa ra với mục tiêu là để tiếp cận các thông lệ quốc tế, đảm bảo an toàn cho hoạt động NH, tạo nên các chuẩn mực về quản trị NH là cần thiết.

Nhưng nếu ngay lập tức bó cứng, “phanh gấp” như giảm tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn từ 60% xuống 40%, hay nâng tỷ lệ dự phòng rủi ro trong cho vay BĐS từ 150% lên 250%... ở chừng mực nhất định sẽ làm cho thị trường tiền tệ, tín dụng có thể bất ổn.

Điều dễ nhận thấy là lãi suất sẽ bị đẩy lên do các NH sẽ phải nâng lãi suất huy động vốn trung và dài hạn (lưu ý đây là những kỳ hạn huy động mà NHNN không áp trần lãi suất) để cân đối được tỷ lệ theo yêu cầu của dự thảo sửa đổi Thông tư 36.

Do đó, Thông tư 06/2016/TT-NHNN ban hành ngày 29/5/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36 đã đưa ra các giới hạn theo lộ trình phải đạt được, bên cạnh đó tăng cường giám sát việc tuân thủ của các TCTD. Điều này một mặt vẫn đảm bảo hoạt động NH được an toàn, tiệm cận với thông lệ quốc tế, nhưng mặt khác lại bớt “sốc” cho các TCTD trong quá trình đáp ứng.

Cái được lớn nhất là giúp cho thị trường giảm bớt được những xáo trộn, biến động đột ngột, tính tuân thủ các văn bản pháp lý cao hơn và giúp cho đầu ra của lãi suất - đang muốn cố gắng giảm xuống theo chỉ đạo của Chính phủ và cũng là mong muốn chung của cộng đồng DN - ít nhất không tăng lên, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên.

Hay liên quan đến việc tạo điều kiện cho xử lý nợ xấu. Theo lộ trình trước đây chúng ta đã khẳng định, giai đoạn 2014-2015 là quá trình “thu gom” nợ xấu từ các TCTD về VAMC, giai đoạn 2016-2017 phải tìm mọi cách xử lý được “đống” nợ xấu đó. Muốn xử lý nợ xấu trong khi vẫn với các quy định cũ thì sẽ không làm được, do đó việc ban hành Thông tư 08 sửa đổi, bổ sung Thông tư 19 trước đó để tăng quyền cho VAMC là cần thiết.

Hoặc trước đó vào cuối năm 2015, trong bối cảnh đồng nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc tiếp tục mất giá và Fed tăng lãi suất, điều này ảnh hưởng rất lớn đến VND, thì động thái đưa lãi suất huy động USD xuống 0% và chuẩn bị chấm dứt cho vay ngoại tệ với đối tượng DN xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ (từ 1/4/2016) đã mang lại những tác động tích cực nhất định. Nhưng trong bối cảnh mới, khi mà DN xuất khẩu gặp khó khăn do chi phí đầu vào tăng (trong đó có chi phí vay vốn), thì NHNN đã nhanh chóng ban hành Thông tư 07 (ngày 27/5/2016) để tháo gỡ…

Qua một số dẫn chứng như vậy, tôi cho rằng những vấn đề đó không phải là “tân chính sách” mà là những điều chỉnh, bổ sung cần thiết cho phù hợp với bối cảnh, thực trạng của nền kinh tế có nhiều khó khăn, cần phải tháo gỡ kịp thời. Đến thời điểm này có thể khẳng định, những hoạt động điều hành, bước đi vừa qua của NHNN là hợp lý, thể hiện thành công bước đầu trong việc điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá và lãi suất - những yếu tố luôn được xem là vấn đề nóng của nền kinh tế.

Nếu đặt trong điều kiện tăng trưởng suy giảm nửa đầu năm nay, với lạm phát thấp được cho là biểu hiện chính sách tiền tệ còn dư địa hỗ trợ tăng trưởng, vậy hoạt động tín dụng nửa cuối năm nên như thế nào?

Mục tiêu cuối cùng của việc điều hành chính sách tiền tệ phải là làm sao ổn định được đồng tiền, kiểm soát được lạm phát. Để kiểm soát lạm phát thì trách nhiệm không chỉ là NHNN, nhưng rõ ràng căn nguyên dẫn đến lạm phát vẫn là vấn đề tiền tệ. Mặt khác, người dân rất nhạy cảm với lạm phát. Do đó, NHNN lấy ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định lạm pháp là mục tiêu cuối cùng để điều hành chính sách tiền tệ.

Từ nay đến cuối năm, trong từng chặng một cần có các giải pháp đồng bộ. Năm nay cho thấy tăng trưởng tín dụng đã được trải đều ra các tháng, quý trong năm. Có thể 6 tháng cuối năm, tăng trưởng tín dụng sẽ cao hơn nửa đầu năm do còn phụ thuộc vào đặc thù mùa vụ và nhu cầu vốn của DN, nhưng cũng không nên vượt quá chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã đề ra.

Hơn nữa, mục tiêu tăng trưởng tín dụng đặt ra chỉ là mục tiêu về số lượng, còn sâu xa và quan trọng hơn là chất lượng tăng trưởng tín dụng, gắn tăng trưởng với nâng cao chất lượng tín dụng. Có như vậy mới giảm phát sinh nợ xấu mới. Và khi mà chất lượng tăng trưởng tín dụng được chú trọng và cải thiện thì cũng giúp giảm lo ngại áp lực lạm phát tăng lên.

Để tăng chất lượng tăng trưởng tín dụng thì việc kiểm soát và lái dòng vốn vào sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Dòng vốn vào nền kinh tế thực và được sử dụng có hiệu quả cũng có nghĩa là sẽ giảm đi vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như BĐS, hạ tầng giao thông BOT…

Dòng vốn NH vào nhiều các lĩnh vực này bảo sai thì không hẳn, nhưng rõ ràng đó là những lĩnh vực cần vốn dài hạn, trong khi vốn NH chủ yếu là ngắn hạn. Tập trung cho vay các dự án trung và dài hạn, khả năng thu hồi vốn chậm và dài, thì nguy cơ rủi ro và méo mó về kỳ hạn, thanh khoản dễ nảy sinh.

Đi đôi với đó, chính sách tiền tệ cũng cần hướng đến phát triển các dịch vụ phi NH. Bởi tăng trưởng tín dụng, không phải chỉ đơn thuần tăng cho vay. Trong nhiều trường hợp, khách hàng sử dụng dịch vụ NH lại nảy sinh nhu cầu vốn tín dụng.

Giúp DN phát triển thì vốn, lãi suất là yếu tố rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả. Ở đây cần có cái nhìn toàn diện hơn cả về phía DN, phía các bộ, ngành và phải đặt trong bối cảnh NHTM cũng phải đi vay của những khách hàng tạm thời thừa vốn để cho vay các DN thiếu vốn. Còn đối với các NH, cần thiết kế những gói sản phẩm dịch vụ phù hợp với từng phân khúc khách hàng, để vừa giúp tăng thu cho NH, vừa hỗ trợ tốt hơn cho các DN.

Bà có đề cập đến vốn trung dài hạn đáng lẽ phải thuộc trách nhiệm của thị trường vốn, vậy phối hợp các chính sách vĩ mô, mà đặc biệt là tài khóa với tiền tệ, tới đây cần như thế nào?

Phối hợp các chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa vừa qua thể hiện được sự nhịp nhàng hơn. Thông qua việc điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá đã tạo điều kiện cho Bộ Tài chính thuận lợi trong việc huy động vốn để giải quyết vấn đề bội chi ngân sách và đầu tư phát triển, có điều kiện để cơ cấu lại kỳ hạn các khoản nợ. Việc phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng thể hiện ở việc không còn tình trạng “ông đá bóng, ông thổi còi” như trước đây.

Tuy những kết quả bước đầu đã được nhìn nhận tích cực hơn, nhưng DN, các nhà quản lý vẫn muốn thấy được sự phối hợp chính sách ấy phải được thể hiện rõ hơn, từ những việc cụ thể như triển khai các gói hỗ trợ, hay như giám sát hệ thống tài chính cả trung và dài hạn, cũng như tiếp tục thực hiện tái cơ cấu NH với tái cơ cấu đầu tư công để hệ thống tài chính NH phát triển ổn định hơn.

Do đó, trong mỗi giải pháp, hoạt động điều hành của các bộ, ngành cần thể hiện rõ sự phối hợp chặt chẽ vì mục tiêu chung là tăng cường hiệu quả, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, giữ được lạm phát theo mục tiêu đặt ra.

Xin cảm ơn bà!

Đường dẫn bài viết: https://tbnhnew.mastercms.vn/lai-dong-von-de-tang-chat-51898.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://tbnhnew.mastercms.vn/ All right reserved.