Đặc biệt quan tâm đến rừng
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi có độ che phù rừng lớn, ngoài ra có những hồ nước tự nhiên lớn và là đầu nguồn của nhiều sông, suối... Vì vậy, Bắc Kạn thường được ví như “lá phổi xanh”, “máy lọc không khí tự nhiên” của miền Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Ông Nguyễn Đăng Bình - Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn cho biết, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn các nhiệm kỳ từ năm 2010 đến nay luôn đề ra các mục tiêu phát triển rừng và kinh tế rừng đưa vào nghị quyết. Nhờ đó, hiện có trên 70% người dân Bắc Kạn sinh sống có thu nhập từ việc trồng rừng và kinh tế khác từ rừng; ngành chế biến gỗ rừng trồng xuất khẩu cũng đóng vai trò chính của lĩnh vực sản xuất công nghiệp của tỉnh Bắc Kạn những năm qua và chắc chắn là cả trong tương lai. Trước những kết quả trên, tỉnh Bắc Kạn tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp bảo vệ rừng tự nhiên; thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ bảo vệ rừng; coi trọng phát triển lâm nghiệp gắn với giảm nghèo bền vững ở các vùng đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số.
Đồng hành cùng địa phương thực hiện các chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển lợi thế của địa phương, ông Hà Sỹ Côn, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bắc Kạn cho biết, thời gian qua, NHCSXH tỉnh đã đẩy mạnh cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn để phát triển kinh tế từ rừng. Hướng đi này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như nhu cầu của nhiều người dân, người nghèo và các đối tượng chính sách chọn rừng để phát triển kinh tế và làm “của để dành” cho tương lai.
Bám rừng để thoát nghèo bền vững
![]() |
Bà Hoàng Thị Huyền cùng cán bộ NHCSXH bên rừng mỡ trên 2 năm tuổi (Ảnh: Trà Giang) |
Đến thăm gia đình bà Hoàng Thị Huyền (thôn Nà Liền, xã Nam Cường, huyện Chợ Đồn) vào một ngày cuối thu, người phụ nữ mang dáng người gầy gò với đôi mắt sáng, đang tỉ mẩn kiểm tra từng cây mỡ non mới trồng. Năm nay, nhờ có nguồn vốn vay ưu đãi 100 triệu đồng từ NHCSXH, gia đình bà đã có điều kiện mở rộng diện tích trồng rừng lên tới năm nghìn cây. Cả khu đồi trọc trước kia giờ đã được phủ xanh bởi những chồi non mơn mởn.
Bà Huyền nâng niu từng cây mỡ như nâng niu đứa con thơ vì bà bảo vốn liếng của gia đình chẳng có gì ngoài đôi bàn tay chai sần và mảnh đất cằn cỗi, rừng chính là kế sinh nhai, là nguồn sống của cả gia đình. Nhờ có rừng, gia đình bà có của ăn của để, con cái được nuôi dưỡng lớn khôn từng ngày. Bà Huyền cũng tin rằng, rừng mỡ mà bà đang hết lòng chăm sóc sẽ là "của để dành" cho con cháu mai sau, giúp chúng thoát khỏi cảnh nghèo khó, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no. Tình yêu rừng với bà Huyền còn được nhân lên khi vợ chồng bà nhận chăm sóc, bảo vệ rừng do nhà nước giao. Mỗi năm bà được nhận 100.000 đồng/bung (10 bung là 1 ha). Số tiền tuy không nhiều, nhưng cũng đủ để bà mua thêm gạo, thêm muối, cải thiện bữa ăn cho gia đình.
Cách Chợ Đồn gần 100km, nằm ở lưng chừng núi Pù Lầu của dãy Phja Bjoóc, thôn Phiêng Phàng (xã Yến Dương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn), bên cạnh việc chăm sóc một vụ lúa, bà con còn tập trung trồng rừng trúc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Vừa dẫn đường cho chúng tôi, bà Triệu Thị Tầm hào hứng kể về khu rừng trúc rộng hơn 2ha từ nguồn vốn vay của NHCSXH của bà trên đỉnh dốc bằng niềm tự hào mộc mạc của người vùng cao. Từ khi tuyến đường liên thôn Nà Pài - Phiêng Phàng được bê tông, mở rộng, bà cùng nhiều người dân trong thôn càng có điều kiện phát triển kinh tế hơn. Rừng trúc của bà nằm ở lưng chừng núi nên đường khó đi hơn, dốc hầu như toàn đất, trên mặt phủ lớp sỏi nhỏ và điểm xuyết những ổ gà đủ sức nuốt trọn bánh xe nếu chẳng may sa lầy. Vượt qua hết cung đường hiểm trở, lên đến rừng trúc nhiệt độ giảm đến 3 - 4 độ, không khí không lành dường như xóa tan mọi mệt mỏi vừa trải qua.
![]() |
Bà Triệu Thị Tầm chia sẻ về cách bà phát triển kinh tế từ rừng với cán bộ NHCSXH (Ảnh: Trà Giang) |
Bà Triệu Thị Tầm cho biết, trúc ở khu rừng này chủ yếu được người dân sử dụng để bán thương phẩm hoặc bán cho thương lái, cây trúc to từ 5m trở lên bán được 5.500-6.000 đồng/m, 1 năm tỉa 3-4 lần. Bà chỉ tỉa dần để bán, thu hoạch hàng loạt gây thiệt hại lớn cho rừng nên bà không làm, kể cả người bán buôn đến mua cũng không bán để rừng có thời gian phát triển. Tuy nhiên, bà cũng nhận thấy, giá bán như vậy không cao, thương lái thường vào tận rừng chọn những cây to, chắc để chặt, hơn 2ha của bà tính ra chỉ cho thu nhập trên dưới 10 triệu đồng mỗi lần chặt nên bà nhận ra rằng, không gì tốt bằng việc bản thân chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm.
Thay vì chờ thương lái đến cò kè bớt một thêm hai, bà giữ cây trúc lại với Phiêng Phàng. Cái bà bán giờ không còn là cây trúc nữa, mà bà bán luôn cả giá trị phi vật thể, bán luôn cả những nét văn hóa độc đáo cho du khách bằng việc liên kết cùng 3 người con trai mở khu du lịch rừng trúc kết hợp thưởng thức cá tầm, cá hồi… Ngoài làm cảnh quan thu hút khách du lịch, rừng trúc còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho nghề đan lát truyền thống của bà con người Dao Quế Lâm tại địa phương, tạo công ăn việc làm và thu nhập trong lúc nông nhàn, đặc biệt là cho phụ nữ. Không chỉ làm "cầu nối" giữa rừng và kinh tế, bà Triệu Thị Tầm còn làm Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn thôn Phiêng Phàng để đưa đồng vốn tín dụng chính sách đến được với nhiều người nghèo, đối tượng chính sách trong thôn vươn lên thoát nghèo bền vững giống như gia đình bà.
Mặc dù diện tích rừng trồng chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với tổng diện tích có rừng, nhưng năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng của Bắc Kạn mang lại hiệu quả chưa cao. Khảo sát sơ bộ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Kạn cho thấy, cây keo với chu kỳ kinh doanh từ 5-7 năm, bình quân thu được khoảng từ 80-100 triệu đồng/ha; cây mỡ với chu kỳ kinh doanh từ 10-12 năm, bình quân thu được khoảng từ 100-120 triệu đồng/ha…
Một thực tế đặt ra, với chu kỳ khoảng 10 năm, chỉ thu được khoảng 100 triệu đồng/ha, bình quân mỗi năm được khoảng 10 triệu đồng/ha là rất thấp, trong khi, người dân còn phải mất chi phí khai thác, vận chuyển. Chu kỳ chăm sóc đến khi khai thác kéo dài trong khi người dân thiếu nguồn thu nhập khác dẫn tới tình trạng “bán rừng non” khi cây chưa sinh trưởng đủ sinh khối. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hành trình mở rộng và bảo vệ “lá phổi xanh” cũng như hiệu quả kinh tế từ rừng của tỉnh Bắc Kạn.
Đường dẫn bài viết: https://tbnhnew.mastercms.vn/vun-boi-gia-tai-xanh-cua-nguoi-ngheo-bac-kan-bai-1-158540.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://tbnhnew.mastercms.vn/ All right reserved.