Cần giải pháp đồng bộ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
16:40 | 27/09/2023
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết các doanh nghiệp Việt Nam đang đối diện với những thách thức to lớn. Hiện đang có một vòng xoáy hết sức bất cập, chính sách càng ngày càng tăng nặng nghĩa vụ, chi phí cho doanh nghiệp nội địa mà không hề giải quyết được vấn đề. Các doanh nghiệp trong nước ngày càng kém cạnh tranh và thua ngay trên sân nhà bởi các nghĩa vụ tuân thủ quá cao.
![]() |
Các doanh nghiệp trong nước ngày càng kém cạnh tranh và thua ngay trên sân nhà bởi các nghĩa vụ tuân thủ quá cao |
Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
Trong 8 tháng đầu năm 2023, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và tái gia nhập thị trường là 149,4 nghìn doanh nghiệp, trong đó số doanh nghiệp thành lập mới đạt 103.658 doanh nghiệp. Giá trị này tuy gấp 1,2 lần mức bình quân doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường giai đoạn 2018-2022, nhưng nếu so với cùng kỳ năm 2022, con số này vẫn giảm nhẹ khoảng 0,03%.
Đáng chú ý số, doanh nghiệp ra khỏi hoặc tạm thời ra khỏi thị trường tăng đến 15,6% so với 8 tháng đầu năm 2022 lên tới 124,7 nghìn doanh nghiệp. Con số 8 tháng của năm 2023 đã cao hơn tổng số doanh nghiệp rời khỏi thị trường cả năm của các năm từ 2018 đến 2021, gần bằng giá trị của cả năm 2022. Đây là một chỉ báo quan trọng cho thấy “sức khỏe” của khu vực doanh nghiệp đáng báo động.
Sức khoẻ của nền kinh tế và doanh nghiệp còn thể hiện qua một chỉ số khác là xuất nhập khẩu. Việt Nam đã là một quốc gia mở cửa hội nhập, sản xuất hướng về xuất khẩu, quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu hiện đã gấp đôi GDP. Trong 8 tháng đầu năm 2023, lần đầu tiên sau nhiều năm, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đã giảm so với cùng kỳ năm trước. Sự sụt giảm này thể hiện rõ ở các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam từ sản phẩm điện tử, may mặc, đồ gỗ cho đến thủy hải sản…
Theo thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2023 mức độ sụt giảm giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu so với cùng kỳ năm 2022 là 13,1%, trong đó xuất khẩu giảm 10%, nhập khẩu giảm 16,2%. Điều này có nguyên nhân quan trọng từ sự suy giảm của thị trường thế giới, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ giảm, trong đó có những thị trường xuất khẩu hàng hóa chủ chốt của Việt Nam như Hoa Kỳ hay các nước châu Âu.
Sự sụt giảm nhu cầu trên thị trường quốc tế đã nhanh chóng ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam. Giá trị sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm sụt giảm 0,4% so với cùng kỳ năm 2022. Đây là mức giảm đáng kể nếu biết rằng trong giai đoạn cùng kỳ 8 tháng đầu năm 2022, mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp so với 8 tháng đầu năm 2021 là 9,2%. Một số ngành sản xuất công nghiệp quan trọng bị giảm có thể kể đến như sản phẩm điện tử, sản xuất máy móc - thiết bị, chế biến gỗ và sản xuất trang phục. Những con số này đã thể hiện phần nào bức tranh khó khăn của nền kinh tế và các doanh nghiệp trong giai đoạn gần một năm vừa qua.
Đánh giá nguyên nhân, ông Tuấn cho rằng ngoài nguyên nhân khách quan của kinh tế toàn cầu đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng cũng có nhiều nguyên nhân từ trong nước, từ thể chế, chính sách. Đó các vấn đề như: Chất lượng cơ sở hạ tầng đang cải thiện nhưng hiện vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế; Việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh cơ bản (vốn, nhân lực, đất đai) chưa thực sự thuận lợi; Chi phí sản xuất kinh doanh cao làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam; Chất lượng quy định pháp luật và thực thi pháp luật cần tiếp tục được cải thiện; Các doanh nghiệp sản xuất nội địa chưa phát triển mạnh mẽ và thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả và DN tư nhân trong nước còn gặp bất lợi so với doanh nghiệp xuyên biên giới.
Cần giải pháp đồng bộ
Theo ông Tuấn, một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và sự hấp dẫn của môi trường đầu tư là chất lượng các quy định pháp luật.
Khảo sát doanh nghiệp hàng năm cho thấy tính ổn định và khả năng dự đoán được pháp luật của Việt Nam tương đối thấp, trong cả giai đoạn ban hành pháp luật và thực thi pháp luật. Tỷ lệ doanh nghiệp “luôn luôn” hoặc “thường xuyên” dự đoán được sự thay đổi quy định pháp luật của chính quyền cấp tỉnh giảm từ mức 16% năm 2014 xuống mức 5% năm 2021 và 3,42% năm 2022. Doanh nghiệp càng nhỏ, khả năng dự đoán sự thay đổi pháp luật càng thấp.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy khả năng dự đoán việc áp dụng pháp luật của cơ quan chính quyền cũng thấp. Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết họ có thể dự đoán được việc thực hiện quy định chỉ ở mức 3,48% năm 2022. Ngoài ra thời gian qua nổi lên vấn đề lạm dụng ban hành Thông tư, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật…
Trong khi đó, doanh nghiệp công nghiệp trong nước và ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa đáp ứng yêu cầu để thu hút các ngành công nghệ tiên tiến và thúc đẩy liên kết có hiệu quả. Việt Nam hiện xếp hạng 105/137 về số lượng nhà cung ứng nội địa và 116/137 về chất lượng nhà cung ứng nội địa, kém hơn so với các nước trong khu vực như: Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Philippines.
So với khu vực FDI, doanh nghiệp trong nước chưa làm chủ tương đối được các chuỗi sản xuất độc lập, phần nào ảnh hưởng đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hiện nay, trong cơ cấu kinh tế, khu vực FDI đóng góp tới 20,13% GDP, chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu, khoảng 50% sản lượng công nghiệp...
Quy mô và năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Theo số liệu của Bộ Công Thương, trên toàn quốc trong số khoảng 5.000 doanh nghiệp nội địa sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng hơn 1.000 doanh nghiệp trong nước tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Số lượng các doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa nhiều.
Công nghiệp hỗ trợ mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu trong nước về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ với các sản phẩm chủ yếu là linh kiện và chi tiết đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Mức độ tham gia của các doanh nghiệp hỗ trợ trong nước vào chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp FDI còn rất khiêm tốn. Hầu hết các doanh nghiệp hỗ trợ trong nước là nhà cung cấp cấp 3 hoặc cấp 4, chủ yếu cung cấp các sản phẩm đơn giản, linh kiện và vật tư có giá trị thấp (ví dụ như bao bì và các chi tiết đơn giản)...
Pháp luật về đầu tư, pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ quy định về các điều kiện mang tính chất thúc đẩy sản xuất nội địa (% giá trị gia tăng sản xuất tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị) nhưng chủ yếu tập trung vào một số tiêu chí định tính hoặc định lượng chung, thiếu vắng sự chuyên sâu phù hợp tính chất của từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
Ông Tuấn cho rằng để đầu tư vào sản xuất công nghiệp thì nguồn vốn đóng vai trò đặc biệt quan trọng nhưng so với doanh nghiệp các nước khác thì các doanh nghiệp Việt Nam gặp bất lợi khi chi phí vốn cao hơn rất nhiều, chưa có nguồn hỗ trợ tài chính hiệu quả trong khi lại chịu rào cản để có thể tiếp cận vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế.
Chính sách tài chính cho phát triển các ngành công nghiệp còn dàn trải, nhiều bất cập, dẫn đến không phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia hợp lý để phát triển các ngành trọng tâm, trọng điểm có tính chất trọng điểm. Hiện các ưu đãi tài chính dàn trải theo rất nhiều lĩnh vực ưu đãi đầu tư và địa bàn ưu đãi đầu tư.
Mặt khác, đặc thù của các doanh nghiệp công nghiệp đòi hỏi vốn lớn cho đầu tư máy móc, thiết bị, nhà xưởng, công nghệ, vật liệu và nhân lực kỹ thuật trình độ cao. Giai đoạn đầu và trong cả quá trình phát triển, nguồn vốn tài chính đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong khi đó, các chính sách tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp hiện hành lại đưa ra nhiều quy định khiến các doanh nghiệp công nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước, vì vậy đã không khuyến khích được các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam vì phải chịu chi phí sản xuất cao hơn so với đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài...
Cũng theo ông Đậu Anh Tuấn, hiện đang có một vòng xoáy hết sức bất cập, chính sách càng ngày càng tăng nặng nghĩa vụ, chi phí cho doanh nghiệp nội địa mà không hề giải quyết được vấn đề. Các doanh nghiệp trong nước ngày càng kém cạnh tranh và thua ngay trên sân nhà bởi các nghĩa vụ tuân thủ quá cao.
Vì thế trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, để đưa nền kinh tế trở lại với quỹ đạo tăng trưởng cao thì cần tập trung tháo gỡ các rào cản, nút thắt từ thể chế, của chính sách đang cản trở sự phát triển. Theo đó, Nhà nước cần đưa ra quy định theo hướng nới lỏng nghĩa vụ cho các doanh nghiệp Việt Nam, ví dụ như loại trừ các doanh nghiệp trong nước khi phải áp dụng các quy định mới, hoặc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro, miễn trừ nghĩa vụ cho các doanh nghiệp đã tuân thủ tốt (đa số là các doanh nghiệp Việt Nam). Về dài hạn, cần nghiên cứu quy định về xử phạt doanh nghiệp tại nước ngoài, hiệu lực ngoài lãnh thổ của pháp luật hành chính…
Dương Công Chiến