Thị trường lao động: Đáng lo sau bức tranh không xấu
11:47 | 30/06/2023
Lực lượng lao động tăng; lao động có việc làm tăng; tỷ lệ thất nghiệp không tăng đáng kể trong quý II vừa qua… tuy nhiên phía sau những xu hướng tích cực này thị trường lao động, việc làm đang tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn.
Thị trường lao động quý I tiếp tục duy trì đà phục hồi |
![]() |
Những con số tích cực
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý II/2023 ước tính là 52,3 triệu người, tăng 107,1 nghìn người so với quý trước và tăng 698,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý II/2023 là 68,9%, không đổi so với quý trước và tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,3 triệu người, tăng 867 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, tăng 0,6%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý II/2023 là 26,8%, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 26,6%, tăng 0,5%.
![]() |
Lao động có việc làm quý II/2023 ước tính là 51,2 triệu người, tăng 83,3 nghìn người so với quý trước và tăng 691,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 19 triệu người, tăng 65,2 nghìn người so với quý trước và tăng 323,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 32,2 triệu người, tăng 18 nghìn người và tăng 367,8 nghìn người.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, lao động có việc làm là 51,2 triệu người, tăng 902 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là gần 19 triệu người, tăng 355 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 32,2 triệu người, tăng 547,1 nghìn người.
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức 6 tháng đầu năm là 64,8%, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 49,4%, giảm 1,7%; khu vực nông thôn là 73,9%, giảm 1,5%; nam là 68%, giảm 1,7% và nữ là 61,2%, giảm 1,5%.
Trong độ tuổi lao động, tỷ lệ thất nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 là 2,27%, giảm 0,12% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,71%; khu vực nông thôn là 2%.
Về thu nhập, 6 tháng đầu năm 2023, thu nhập bình quân của lao động là 7 triệu đồng/tháng, tăng 7,6%, tương ứng tăng 497 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam là 8 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 5,9 triệu đồng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 8,5 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 6,1 triệu đồng/tháng.
Số lao động không sử dụng hết tiềm năng (là lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đủ công việc, bao gồm những người thất nghiệp, thiếu việc làm và một nhóm ngoài lực lượng lao động sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc hoặc có tìm việc nhưng chưa sẵn sàng làm việc ngay) trong 6 tháng đầu năm 2023 là 2,3 triệu người, giảm gần 0,5 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng (là tỷ số giữa lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đầy đủ công việc so với tổng số lao động có nhu cầu làm việc trong nền kinh tế) là 4,4%, thấp hơn 1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 4,2% giảm 1%; khu vực nông thôn là 4,5% giảm 0,9%.
Nhưng phía sau ẩn chứa những lo ngại
Lo ngại đầu tiên nằm ở sự chuyển dịch việc làm trong các khu vực kinh tế mà có thể không ít trong đó vì những lý do khách quan mà người lao động không mong muốn. Số liệu cho thấy lao động có việc làm quý II/2023 trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 13,8 triệu người, chiếm 27% và giảm 23,8 nghìn người so với quý trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,1 triệu người, chiếm 33,3% và giảm 242 nghìn người do thiếu đơn hàng (đặc biệt ở những ngành như dệt may, chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học…); khu vực dịch vụ là 20,3 triệu người, chiếm 39,7% và tăng 349 nghìn người.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, các số liệu cũng cho thấy xu hướng tương tự: lao động có việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,8 triệu người, chiếm 27% và giảm 71,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,2 triệu người, chiếm 33,6% và tăng 414,9 nghìn người; khu vực dịch vụ là 20,1 triệu người, chiếm 39,4% và tăng 558,9 nghìn người.
Lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động có việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn. Mặc dù số liệu chung 6 tháng giảm như đề cập ở trên nhưng số lao động có việc làm phi chính thức chung trong quý II/2023 lên tới 33,3 triệu người, chiếm 65,1% trong tổng số lao động có việc làm và tăng 301,9 nghìn người so với quý trước. Riêng trong khu vực dịch vụ, lao động có việc làm phi chính thức trong quý II là 11,6 triệu người, tăng 498,9 nghìn người so với quý trước, dẫn đến tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ở khu vực này là 57,1%, tăng 1,5% so với quý trước. “Nguyên nhân chủ yếu do nhiều doanh nghiệp công nghiệp cắt giảm lao động nên lao động có xu hướng chuyển dịch sang khu vực dịch vụ và chấp nhận làm công việc ít ổn định hơn”, ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục thống kê cho biết.
Lo ngại thứ hai nằm ở số người và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động tăng lên. Cụ thể, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý II là 940,7 nghìn người, tăng 54,9 nghìn người so với quý I và tăng 58,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm quý II là 2,06%, tăng 0,12% so với quý I và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm 2023, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 913,2 triệu người, vẫn giảm 192,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 2%, giảm 0,48% so với cùng kỳ năm trước.
Lo ngại tiếp theo đến từ thu nhập bình quân của lao động, sau nhiều quý tăng cũng bắt đầu giảm trong quý vừa qua. Thu nhập bình quân của lao động quý II/2023 là 7 triệu đồng/tháng, giảm 79 nghìn đồng so với quý I dù vẫn tăng 355 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 8 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 5,8 triệu đồng/tháng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 8,5 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 6,1 triệu đồng/tháng.
![]() |
Cùng với đó, tỷ lệ thất nghiệp dù vẫn giảm nếu tính theo 6 tháng nhưng đã tăng nhẹ trong quý II. Cụ thể, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II/2023 là 2,3%, tăng 0,05% so với quý trước và giảm 0,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,75%; khu vực nông thôn là 2,01%.
Đáng chú ý trong quý II/2023, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ là hai vùng có tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động cao nhất cả nước, tương ứng là 2,65% và 2,64%. Tình trạng nhiều doanh nghiệp ở các ngành nghề thiếu đơn hàng diễn ra từ quý IV/2022 và tiếp tục kéo dài sang quý II/2023, dẫn đến hàng trăm nghìn người lao động bị giảm giờ làm, mất việc làm, ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
Theo báo cáo nhanh từ các địa phương, số lao động nghỉ giãn việc của các doanh nghiệp trên cả nước trong quý II năm nay (tổng hợp từ ngày 01/4/2023 đến 15/6/2023) là khoảng 241,5 nghìn người, chủ yếu là lao động ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 84,1%) và tập trung ở ngành da giày với 66,3% và dệt may với 14,4%.
Cuối cùng, lo ngại còn nằm ở tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng. Ông Phạm Hoài Nam cho biết, tỷ lệ này tăng rất nhanh từ thời điểm quý I/2020 và đạt mức cao kỷ lục là 10,4% vào quý III/2021 do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Khi các hoạt động kinh tế - xã hội được khôi phục, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng giảm nhanh từ 10,4% xuống còn 3,9% vào quý IV/2022, nhưng sau đó có dấu hiệu tăng trở lại vào quý I/2023 (ở mức 4,5%) và giữ ở mức 4,3% vào quý II/2023 (tương ứng với khoảng 2,2 triệu người).
Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê lưu ý, đa số lao động không sử dụng hết tiềm năng là những người từ 15-34 tuổi (chiếm 51,7%). Điều này cho thấy Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao động trẻ.Lê Đỗ