8 hành vi bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử
10:17 | 22/06/2023
Với 468/477 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 94,74%), Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) sáng 22/6/2023. Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) gồm 7 Chương, 54 Điều, có hiệu lực thị hành từ ngày 1/7/2024.
Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi): Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số |
![]() |
Trước khi biểu quyết thông qua, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.
Về chữ ký điện tử, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng theo khoản 11 Điều 3 của dự thảo Luật, chữ ký điện tử được sử dụng để xác nhận chủ thể ký và xác nhận sự chấp thuận của chủ thể đó đối với thông tin trong thông điệp dữ liệu được ký và phải được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử gắn liền hoặc kết hợp một cách logic với thông điệp dữ liệu thì lúc đó mới được coi là chữ ký điện tử.
Hiện nay, các hình thức xác nhận khác bằng phương tiện điện tử như chữ ký scan, chữ ký hình ảnh, mật khẩu sử dụng một lần (OTP), tin nhắn (SMS),… không phải là chữ ký điện tử. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn triển khai nghiệp vụ trong ngành ngân hàng, hải quan,… và nhằm thúc đẩy giao dịch điện tử, khoản 4 Điều 22 của dự thảo Luật đã quy định việc sử dụng các hình thức xác nhận này được thực hiện theo quy định pháp luật có liên quan.
Về chữ ký điện tử chuyên dùng, Điều 22 của dự thảo Luật quy định "chữ ký điện tử chuyên dùng là chữ ký điện tử do cơ quan, tổ chức tạo lập, sử dụng riêng cho hoạt động của cơ quan, tổ chức đó phù hợp với chức năng, nhiệm vụ". Cá nhân sẽ không tự tạo lập và sử dụng riêng chữ ký điện tử chuyên dùng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức. Do đó, dự thảo Luật không quy định về cách thức xác định việc đủ điều kiện bảo đảm an toàn đối với chữ ký điện tử chuyên dùng cá nhân.
Về việc chuyển đổi từ văn bản giấy sang thông điệp dữ liệu và ngược lại để phù hợp thực tiễn ngành ngân hàng, hải quan, tiếp thu các ý kiến xác đáng của đại biểu Quốc hội, Điều 15 đã được chỉnh lý nội dung yêu cầu chuyển đổi cần đáp ứng và giao Chính phủ quy định chi tiết, thể hiện như trong dự thảo Luật, phù hợp với thực tiễn ngành ngân hàng, hải quan.
Về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về công chứng, chứng thực thông điệp dữ liệu và chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự thông điệp dữ liệu hoặc giao Chính phủ quy định nội dung này; bổ sung quy định chuyển tiếp về nội dung pháp luật liên quan đến công chứng, chứng thực…
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật chỉ quy định việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử, không quy định nội dung, điều kiện, phương thức của giao dịch. Để thống nhất với phạm vi điều chỉnh, các quy định về công chứng, chứng thực, hợp pháp hóa lãnh sự, lưu trữ điện tử tại các Điều 9, 13 và 19 của dự thảo Luật chỉ dẫn chiếu mà không quy định cụ thể để tránh chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống pháp luật. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giữ nội dung này như dự thảo Luật và không bổ sung quy định chuyển tiếp liên quan đến công chứng, chứng thực tại Điều 53.
![]() |
Về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, có ý kiến đề nghị quy định cụ thể, chi tiết hơn dịch vụ lưu trữ và xác nhận tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu để tránh trùng lặp chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông với Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh (về chứng thực).
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dịch vụ lưu trữ và xác nhận tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều 32 là việc bảo đảm thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ mà không bị chỉnh sửa, xoá trên môi trường điện tử. Trong khi đó, pháp luật về chứng thực, công chứng hiện hành quy định các hoạt động chứng thực bản sao từ bản chính; chứng thực chữ ký trong giấy tờ; chứng thực hợp đồng; công chứng, chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng trên môi trường thực.
Do đó, hai loại dịch vụ này là khác nhau và quy định trong dự thảo Luật về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông liên quan đến nội dung này sẽ không chồng lấn chức năng, nhiệm vụ với Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về hoạt động chứng thực.
Theo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), các hành vi dưới đây bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử: (i) Lợi dụng giao dịch điện tử xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (ii) Cản trở hoặc ngăn chặn trái pháp luật quá trình tạo ra, gửi, nhận, lưu trữ thông điệp dữ liệu hoặc có hành vi khác nhằm phá hoại hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử; (iii) Thu thập, cung cấp, sử dụng, tiết lộ, hiển thị, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông điệp dữ liệu; (iv) Xóa, hủy, giả mạo, sao chép, làm sai lệch, di chuyển trái pháp luật một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu; (v) Tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật; (vi) Gian lận, giả mạo, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái pháp luật tài khoản giao dịch điện tử, chứng thư điện tử, chứng thư chữ ký điện tử, chữ ký điện tử; (vii) Cản trở việc lựa chọn thực hiện giao dịch điện tử; (viii) Hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của Luật.Lê Đỗ