![]() |
Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, chỉ số IIP ước tính giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 5,6%). Tổng cục Thống kê cho rằng nguyên nhân là do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, biến động khó lường, lạm phát các nước mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, đơn hàng giảm kéo theo kim ngạch xuất khẩu giảm.
Đóng góp vào bức tranh trên, ngành khai khoáng giảm 3,8% (cùng kỳ năm 2022 tăng 0,1%), làm giảm 0,6 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo giảm 6,9% (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,1%), làm giảm 5,3 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 5,2% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,4%), làm giảm 0,5 điểm phần trăm; riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,3% (cùng kỳ năm 2022 tăng 3,7%), làm tăng 0,1 điểm phần trăm.
![]() |
Chỉ số IIP 2 tháng đầu năm 2023 của một số ngành trọng điểm cấp II giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, gồm: sản xuất thiết bị điện giảm 50,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 13,6%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 13%; sản xuất kim loại giảm 12,2%; sản xuất trang phục giảm 11,7%; dệt giảm 11%; sản xuất phương tiện vận tải khác và sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác cùng giảm 8,6%; sản xuất xe có động cơ giảm 6%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 5,3%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành tăng so với cùng kỳ năm trước, gồm: sản xuất đồ uống tăng 32,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 20%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 6,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 6,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 6%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,3%; khai thác quặng kim loại tăng 4,2%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong hai tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước: ô tô giảm 18,3%; thép cán giảm 15,1%; quần áo mặc thường giảm 14,8%; thép thanh, thép góc giảm 13,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 13,3%; xe máy giảm 12,4%; điện thoại di động giảm 9,6%; sữa bột giảm 7,8%; dầu thô khai thác giảm 5,8%; xi măng giảm 5,6%; điện sản xuất giảm 4,8%; khí hóa lỏng LPG giảm 4,7%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước: bia tăng 33,5%; xăng dầu tăng 21,6%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 8%.
Xét về địa phương, chỉ số sản xuất công nghiệp hai tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước tăng ở 44 địa phương và giảm ở 19 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số công nghiệp đạt mức tăng cao do ngành công nghiệp chế biến-chế tạo, ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao, như Tuyên Quang tăng 26,3%, Hải Phòng tăng 14,4%, Hải Dương và Phú Thọ tăng 14,3%, Kon Tum tăng 13,4%, Bắc Giang tăng 11,9%, An Giang tăng 11,8%, Hậu Giang tăng 8,9%. Các địa phương có chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Hậu Giang tăng 208,2%, Thái Bình tăng 74,5%, Quảng Trị tăng 40,6%./.
Tổng cục Thống kê cho biết, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/2/2023 tăng 0,5% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,1% so với cùng thời điểm năm 2022.
Đường dẫn bài viết: https://tbnhnew.mastercms.vn/cong-nghiep-thang-hai-phuc-hoi-nhung-kem-lac-quan-136615.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://tbnhnew.mastercms.vn/ All right reserved.