Từ năm 2016, không còn dự án thủy điện nào xâm hại rừng tự nhiên

Trong các phiên thảo luận tại hội trường các ngày 3-4/11, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, rất nhiều ý kiến đại biểu nhìn nhận, tình hình bão lũ bất thường vừa qua ngoài những nguyên nhân khách quan như do biến đổi khí hậu, cấu tạo địa chất… còn do một tác nhân quan trọng là rừng tự nhiên bị hủy hoại. Và góp phần không nhỏ vào sự hủy hoại đó là tình trạng các thủy điện nhỏ và vừa mọc khắp nơi.
Tuy nhiên theo giải trình của Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, các dự án thủy điện từ lâu đã được quan tâm, giám sát và từ năm 2016 đến nay không bổ sung dự án thủy điện nào sử dụng đất rừng tự nhiên.
tu nam 2016 khong con du an thuy dien nao xam hai rung tu nhien
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu trước Quốc hội

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, cả nước hiện có 429 đập thủy điện với các quy mô khác nhau, dung tích trữ nước 56 tỷ m3, công suất khoảng 20.000 MW, chiếm 37% công suất điện hiện nay.

Trong bối cảnh chúng ta đang phụ thuộc rất nhiều vào năng lượng nhập khẩu, năng lượng sơ cấp đã gần hết, thủy điện là nguồn năng lượng rất quan trọng phục vụ nhu cầu năng lượng trong quá trình phát triển kinh tế.

Ngoài chức năng phát điện, các hồ chứa còn có tác dụng tích nước, tùy công suất có thể cắt giảm, điều tiết lũ. Vì thế, việc quản lý, khai thác nguồn năng lượng này như thế nào là nhiệm vụ quan trọng.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cho biết cũng không thể phủ nhận những tác động của các nhà máy thủy điện, đặc biệt là tác động đến môi trường đất, nước, khí hậu cũng như đến đời sống dân sinh. Trước đây, một trong những vấn đề nổi lên là các dự án thủy điện rất gắn với việc chiếm dụng rừng tự nhiên, gây ra những tác động và ảnh hưởng môi trường, đến chức năng của rừng trong phòng chống bão lũ.

Chính vì vậy, đây là vấn đề rất được quan tâm của Quốc hội, Chính phủ và được thể hiện trong một loạt giám sát và quy định cụ thể. Đặc biệt, sau Nghị quyết 62 của Quốc hội ban hành cuối năm 2013 và sau đó là Nghị quyết 11 của Chính phủ, công tác phát triển, vận hành các dự án thủy điện, an toàn hồ đập đã được đảm bảo ở mức mới.

Hàng năm đều có các cuộc kiểm tra, giám sát và báo cáo đầy cáo theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 62 về độ an toàn của hồ đập thủy điện; vận hành của hệ thống các thủy điện, khả năng đáp ứng trong phòng chống lũ bão tại địa phương…

Về yêu cầu phát triển các dự án thủy điện không xâm hại rừng tự nhiên thì từ năm 2016, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đưa ra chỉ chỉ tiêu tuyệt đối không bổ sung bất kỳ dự án thủy điện nào, dù lớn hay nhỏ, nếu có sử dụng đất rừng tự nhiên. Và trên thực tế điều này đã được thực hiện nghiêm.

Tỷ lệ chiếm dụng đất từ các dự án được bổ sung quy hoạch cũng giảm, chỉ 1,9 ha (đất sản xuất nông nghiệp, đất rừng trồng) cho 1MW điện, thấp hơn mức chiếm dụng 10 ha đất cho 1MW theo quy định cho phép. Điều đó chứng tỏ chúng ta đã thực thi chính sách chặt chẽ, nghiêm túc.

Cũng trong giai đoạn này, đã đưa ra khỏi quy hoạch phát triển thủy điện 472 dự án, 8 dự án thủy điện bậc thang ở các lưu vực sông, đồng thời loại bỏ 213 điểm tiềm năng phát triển thủy điện khỏi quy hoạch phát triển thủy điện.

Liên quan tới công tác vận hành, đảm bảo an toàn hồ đập, Bộ trưởng cho biết đã có hàng loạt công cụ pháp lý, từ Luật xây dựng, Luật Bảo vệ tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Phòng chống thiên tai, cho tới các văn bản hướng dẫn, giám sát để điều chỉnh hoạt động các thủy điện.

Bên cạnh đó, các địa phương đều có hệ thống quan trắc, giám sát, đo lường vận hành của thủy điện. Nguyên tắc là lượng nước xả về hạ du không đực vượt quá lượng nước về đập. Các chủ đập phải có kế hoạch báo cáo địa phương việc điều tiết, quy trình vận hành, đảm bảo vấn đề xả lũ, an toàn tình mạng cho nhân dân, gắn với phòng chống lũ bão.

Bộ trưởng cho biết thống nhất với ý kiến các đại biểu đã nêu về vấn đề giám sát việc xả lũ. Dù trong bối cảnh khuôn khổ pháp lý đầy đủ, nhưng không tránh được trường hợp vi phạm, thực hiện không nghiêm ở các địa phương. Như vào năm 2016, Thủy điện Hố Hô đã xả lũ vượt quá mức nước về hồ, gây lụt hạ du. Các cơ quan chức năng đã xử lý kiên quyết, thu giấy phép hoạt động, phạt và sau khi khắc phục xong mới cho phép hoạt động trở lại.

Về vấn đề thủy điện ảnh hưởng tới lũ bão, sạt lở, thậm chí là động đất, Bộ trưởng Tuấn Anh cho biết đã tham gia cùng đoàn công tác hai lần tại Quảng Bình, Quảng Trị, hay đợt công tác mới đây tại Quảng Nam, Quảng Ngãi. Qua khảo sát thực tế, báo cáo của địa phương và đánh giá của các nhà chuyên môn thì trước mắt phải khẳng định, sạt lở đất gắn chặt với yếu tố thời tiết dị thường và cực đoan.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng nhấn mạnh: "Tất nhiên, tác động của việc mất rừng đầu nguồn, thảm thực vật… là những vấn đề do tác động của con người, trong đó có thông qua các dự án như thủy điện là những vấn đề không thể phủ nhận. Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu và những yếu tố cực đoan của thời tiết, chúng tôi cho rằng phải xác định việc đối phó với thiên tai bão lũ là câu chuyện mới".

Bộ trưởng cho rằng, giải pháp phải đặt vào công tác nghiên cứu khoa học, đưa ra cảnh báo một cách cụ thể hơn, đặc biệt là lập bản đồ khu vực sụt lún, nguy cơ biến đổi cực đoan của thời tiết... Các vấn đề liên quan đến thủy điện cũng cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý để đảm bảo hiệu quả kinh tế cũng như trong phòng chống thiên tai.

"Chúng tôi xin tiếp thu ý kiến các đại biểu. Tới đây, Bộ sẽ làm việc với các bộ, ngành, địa phương để nghiên cứu cụ thể, đánh giá các mặt còn hạn chế, từ đó tham mưu chính sách với Chính phủ siết chặt phát triển thủy điện, hạn chế tối đa tác động tiêu cực", Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.

Đường dẫn bài viết: https://tbnhnew.mastercms.vn/tu-nam-2016-khong-con-du-an-thuy-dien-nao-xam-hai-rung-tu-nhien-108290.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://tbnhnew.mastercms.vn/ All right reserved.